Bài làm

Cùng viết về đề tài người nông dân nhưng Nam Cao lại đi sâu vào khai thác bi kịch con người bị lưu manh, tha hóa. Tác phẩm tiêu biểu nhất cho mảng đề tài này của ông là truyện ngắn "Chí Phèo". Đây là tác phẩm được đánh giá như một kiệt tác của nền văn học Việt Nam hiện đại với nhân vật điển hình là Chí Phèo.

"Chí Phèo" được sáng tác năm 1941 với nhan đề đầu tiên là "Cài lò gạch cũ". Sau đó, nhà xuất bản Đời mới đã đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi" và khi in lại trong tập "Luống cày" Nam Cao đã đặt lại tên tác phẩm là "Chí Phèo". Truyện ngắn này đã khắc họa số phận của một con người từ anh canh điền hiền lành, lương thiện trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Không ai khác, đó là Chí Phèo.

Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện "Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết". Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.

Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mắt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.

Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.

Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật CHí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.

Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. "Bát cháo hành" là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.

Không chỉ biến dạng về nhân hình, Chí Phèo còn tha hóa cả về nhân tính. Hắn triền miên trong những cơn say, "cứ rượu xong là hắn chửi". Hắn chửi trời, chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, "chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn" và chửi cả "đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nổi này". Hắn cất tiếng chửi vì hắn say rượu, vì hắn cô đơn lạc loài giữa xã hội. Tiếng chửi của Chí tuy vô thức nhưng lại hoàn toàn có ý thức. Hắn chửi vì sự bất lực, bế tắc, chửi vì không ai thèm giao tiếp với hắn. Hắn đã bị tước đoạt quyền làm người khi sự tồn tại của hắn không được ai công nhận.

Chí sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ và trở thành tay sai đắc lực cho bá Kiến. Lần thứ nhất Chí đến nhà cụ bá để đòi món nợ máu vì hắn đã xác định được kẻ thù. Hắn hung hăng, gọi cả tên tục nhà bá Kiến ra mà chửi nhưng bằng những lời dụ dỗ ranh mãnh, bá Kiến đã mua chuộc được Chí làm tay sai cho mình. Khi bá Kiến nói Chí Phèo với lí Cường có họ hàng với nhau hắn đã tự đắc, thấy lòng cũng "nguôi nguôi". Hắn đã "phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hắn làm tất cả những việc ấy trong khi say, "hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm".

Tưởng chừng con quỷ dữ ấy đã mất hết đi nhân tính nhưng bản chất lương thiện chỉ bị khuất lấp đi và nó chưa hoàn toàn lụi tắt. Sự xuất hiện của thị Nở trong cuộc đời Chí như làn gió thổi vào đống tro tàn đã tắt từ lâu, thị đã khơi dậy bản chất vốn có của hắn. Cuộc gặp gỡ ấy tuy tình cờ nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Chí Phèo. Đây là cuộc gặp gỡ kì lạ và có lẽ sẽ không xuất hiện lần thứ hai trong văn học hiện đại. Trong một đêm uống rượu say, hắn gặp thị ngủ quên khi ra sông kín nước rồi họ "ăn nằm" với nhau. Năm ngày sống với thị Nở là năm ngày Chí trở về làm một người lương thiện đúng nghĩa.Thị Nở đã làm hồi sinh, thức tỉnh Chí Phèo, tình yêu và sự quan tâm của thị khiến Chí cảm động.

Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.

Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên "Ai cho tao làm người lương thiện", xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.

Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội diển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.

 

Bài viết gợi ý: