Đáp án đúng:
Phương pháp giải:
- Vận dụng các thao tác lập luận, kỹ năng làm bài văn nghị luận văn học dạng phân tích đoạn trích văn xuôi.
- Áp dụng kiến thức đã học về tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.Giải chi tiết:I. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận của bài viết: cảm nhận về nhân vật Tràng trong đoạn trích, từ đó nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân thể hiện qua nhân vật
II. Thân bài
1) Giới thiệu tác giả Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt
2) Cảm nhận về nhân vật Tràng trong đoạn trích
a) Giới thiệu nhân vật + giới thiệu tình huống để dẫn đến đoạn trích
- Tràng là một người dân ngụ cư với những thiệt thòi trước định kiến của xã hội. Gia cảnh lại quá nghèo, chỉ có mẹ góa con côi, anh làm nghề kéo xe bò thuê để nuôi mẹ già đã ở tuổi gần đất xa trời. Anh có ngoại hình không mấy hấp dẫn, như một sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa. Có thể nói ở anh hội tụ đầy đủ các yếu tố bất lợi để có thể lấy được vợ, nhất là trong tâm điểm của nạn đói lịch sử năm 1945.
- Trong đoạn trích, Tràng được đặt vào một tình huống bất ngờ, từ đó đã tỏa sáng những vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng.
b) Cảm nhận về nhân vật Tràng trong đoạn trích
*1 Cảm nhận về Tràng trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với thị
- Hoàn cảnh gặp gỡ:
+ Tràng vốn làm nghề kéo xe bò thuê và ít lâu nay công việc của anh là “xe thóc Liên đoàn lên tỉnh”- vận chuyển thóc cho phát xít Nhật. Còn thị thì không có nghề nghiệp, ngày nào cũng ngồi vêu ở cửa nhà kho cùng với mấy chị con gái để “nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”.Công việc của Tràng vốn bấp bênh, thu nhập thấp nhưng thị còn thảm hại hơn rất nhiều, vì không có việc gì để mưu sinh.
+ Hôm ấy, khi “đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”, không chủ tâm chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy thị ra với hắn, vì thế mà có sự tiếp xúc đầu tiên…
- Câu hò của Tràng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!/Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”.
+ Trước hết đây là câu hò của người lao động “hò một câu chơi cho đỡ nhọc”, lời ca tiếng hát bật lên tự nhiên trong bối cảnh lao động nặng nhọc, làm vơi bớt nhọc nhằn, cổ vũ, khích lệ con người. Nhịp của câu hò trước hết là nhịp của lao động, chữ “nì”, “này” được chêm vào cuối mỗi câu, ngắt ra để tạo nhịp, dồn sức để kéo chiếc xe bò đầy thóc lên dốc.
+ Câu hò phải chăng còn được bật ra một cách tự nhiên, như lời đùa vui, bông lơn giữa các chàng trai chưa vợ và những cô gái chưa chồng. Có thể thấy hoàn cảnh đói khổ nhất cũng không làm mất đi tình cảm tự nhiên của con người, trai gái ở tuổi yêu đương, dựng vợ gả chồng gặp gỡ nhau, đùa vui, trêu ghẹo nhau,… Nhờ đó mà tạo nên “hợp âm” tiếng cười như nắc nẻ của tất cả các cô gái, sự đùn đẩy trêu chọc,…làm cho không gian vui lên, bớt cảm giác nặng nề của cuộc sống mưu sinh u ám.
+ Câu hò dường như cũng ẩn chứa khát vọng âm thầm của con người, của Tràng: trong ngày đói người ta nói đến “cơm trắng mấy giò” – miếng ăn - như một niềm hạnh phúc tinh thần. Người ta hò “Lại đây… với anh” như tiếng nói âm thầm, tự nhiên của khát vọng hạnh phúc ở con người: muốn có “em”, có “anh”, chồng cầm càng, vợ đẩy sau, có đôi có lứa chăng?
- Cuộc giao tiếp đầu tiên:
Trước sự trêu chọc ghép đôi của mấy cô bạn “Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!”, thị không hề xấu hổ hay e thẹn như biểu hiện thường thấy ở những cô gái khác, mà rất dạn dĩ phối hợp với các bạn để vui đùa:
- Ngôn ngữ táo bạo, đanh đá “Có khối cơm trắng mấy giò đấy” “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì” lại được nói bằng cái giọng điệu “cong cớn”; nhưng vẫn có nét duyên riêng ở cách xưng hô thân mật “nhà tôi ơi”, “đằng ấy nhỉ” khiến khoảng cách xa lạ như được xóa nhòa.
- Hành động “vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” đúng là thiếu đi sự duyên dáng nữ tính, nhưng có thể thấy đằng sau đó là sự giúp đỡ chân tình khi Tràng đang phải gò sức để kéo xe lên dốc, phải vuốt mồ hôi trên mặt khi anh ngoái cổ lại.
- Đặc biệt là những biểu cảm “Thị liếc mắt, cười tít” trong cảm nhận của Tràng mới đáng yêu làm sao bởi “Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Cho nên không có gì khó hiểu với cảm xúc được bộc bạch một cách rất hồn nhiên ở anh “Tràng thích lắm”. “Thích lắm” có lẽ không chỉ với nụ cười, mà với người con gái đầu tiên thân mật và gần gũi với anh đến thế. Rất có thể, từ giây phút này đã nhen nhóm ở Tràng những tình cảm đặc biệt với người con gái ấy.
-> cuộc gặp đầu tiên đã cho thấy những vẻ đẹp tâm hồn trong Tràng: sự lạc quan và khát vọng hạnh phúc.
*2 Cảm nhận về nhân vật Tràng trong cuộc gặp gỡ thứ hai
- Hoàn cảnh gặp gỡ:
Tràng vừa hoàn thành công việc, đang ngồi nghỉ ngơi uống nước ngoài cổng chợ tỉnh thì thị xuất hiện bất ngờ “ở đâu sầm sập chạy đến”. Về phía Tràng, cuộc gặp lần này vẫn là tình cờ nhưng về phía thị có sự chủ tâm, và mục đích là để “đòi nợ” một lời hứa hẹn “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt”. Lời hẹn của Tràng lúc trước không rõ là gì nhưng chắc cũng chỉ là những câu bông lơn, đùa vui của tuổi trẻ nên Tràng đã quên ngay, nhưng thị thì vẫn nhớ và nhất định phải biến thành thật. Có thể thấy giữa hai người đã tồn tại những sợi dây ràng buộc đầu tiên…
- Tấm lòng nhân hậu
+ Lần gặp lại này, ban đầu Tràng không nhận ra thị. Khi thị sưng sỉa trách móc, “Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai”. Là bởi vì ngoại hình của thị khác quá, cái vẻ tình tứ đáng yêu hôm nào đã nhường chỗ cho sự thảm hại đến tội nghiệp “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt ấy gợi nhớ đến “hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ trong đêm mùa đông được Mị giải cứu trước khi “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Đó là gương mặt khi Thần Chết đã vẽ những nét ghê rợn đầu tiên.
-> Bộ dạng của thị không còn đáng yêu, nhưng chắc chắn đã khơi dậy ở Tràng tình thương giữa những người đồng cảnh.
+ Ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ của thị cũng thay đổi. Nếu ở lần gặp trước chỉ là một chút dạn dĩ, thì bây giờ là sự sấn sổ, táo bạo, vô duyên đến thành trơ trẽn. Khi Tràng mời ăn giầu thì thị “cong cớn” nói “có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Nhận được lời mời “đấy, muốn ăn gì thì ăn” của Tràng, “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, rào đón “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì”, rồi sà xuống, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”, ăn xong “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở “Hà, ngon!””
-> Cái đói làm thị tả tơi, xơ xác, quên cả sĩ diện và lòng tự trọng, đánh mất cả thiên tính nữ của phái đẹp. Thị xoắn xuýt vào miếng ăn, tìm mọi cách đòi được ăn, và ăn quên cả giữ kẽ.
=> Bằng tấm lòng nhân hậu, Tràng đã thông cảm cho sự thảm hại của thị và hào phóng mời “Đấy, muốn ăn gì thì ăn”, sắn lòng đãi bốn bát bánh đúc. Miếng ăn lúc bấy giờ là cả mạng sống của con người, thế mà một người kéo xe bò thuê với cuộc sống bấp bênh như Tràng lại dám bỏ tiền ra đãi một người lạ một bữa no như thế là một nghĩa cử rất đáng trân trọng.
- Khát vọng hạnh phúc
+ Trước lời thăm dò của thị “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, Tràng đã bộc bạch về gia cảnh một cách tự nhiên và bật ra một câu nói đùa không định trước: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Người đọc như được gặp lại lời tỏ tình của chàng trai trong bài ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình”:
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng
. Không được tế nhị và duyên dáng như câu ca của người xưa, chỉ là cách giãi bày chất phác bằng ngôn từ mộc mạc “làm đếch gì có vợ” nhưng không khỏi khơi lên niềm thương cảm ở người đọc, và có thể ở cả người phụ nữ mà anh đang đối thoại. Vì gia cảnh, vì những thiệt thòi về lí lịch, về ngoại hình mà đến tuổi dựng vợ gả chồng, anh vẫn chưa thể xây dựng mái ấm cho riêng mình.
. Lời tán tỉnh bông phèng, tiện miệng không hẳn là đùa vui, bộc phát mà ẩn chứa trong đó là khát vọng hạnh phúc muốn có đôi có cặp “về với tớ”, là mong muốn được chia sẻ đồng cam cộng khổ “khuân hàng lên xe rồi cùng về”.
+ Chính vì thế mà khi thị bám lấy câu nói đùa, theo về thật, sau giây phút ngạc nhiên “ai ngờ…”, rồi đến lo lắng, sợ hãi “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”, Tràng đã tặc lưỡi “Chậc, kệ!”. Sự liều lĩnh ấy không phải là nhất thời mà được thôi thúc từ khát vọng hạnh phúc tiềm ẩn trong anh. Tràng sẵn sàng gạt bỏ sang một bên những tháng ngày tăm tối trước mắt để dũng cảm đón nhận hạnh phúc. Mới thấy nạn đói dù khủng khiếp đến đâu cũng không ngăn được sức sống, ước mong có một mái nhà hạnh phúc của con người.
- Chăm sóc yêu thương
Trước khi dẫn nhau về, chàng trai vụng về bỗng trở nên chu đáo, thể hiện sự quan tâm với thị một cách tinh tế “Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về…”
+ Mua cho thị “cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt” vừa là để chuẩn bị cho cuộc sống gia đình, nhưng cũng là để thị bước chân về nhà chồng không đến nỗi quá thảm hại, không có gì mang theo.
+ Cùng nhau “ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”, xem như thay cho tiệc cưới của chính mình, để ăn mừng, để sống trọn vẹn với hạnh phúc mà mình đang nắm giữ, bởi ngày mai, ngày sau chưa nói trước được điều gì, bởi không biết đến bao giờ mới có một bữa no tiếp theo.
-> Những hành động đó cũng là cách mà Tràng thể hiện tình yêu thương và sự trân trọng dành cho thị- người “vợ nhặt”, vợ theo không tội nghiệp của mình.
c) Đánh giá chung
* Nhân vật Tràng
Xuất hiện trong một đoạn trích ngắn, giữa tâm điểm của nạn đói khủng khiếp trong lịch sử, nhưng đã tỏa sáng những hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn người nông dân: sự tếu táo trẻ trung đầy lạc quan, tấm lòng nhân hậu, chan chứa yêu thương, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc
* Đặc sắc nghệ thuật
- Tác giả đã tạo dựng bối cảnh gặp gỡ thú vị để làm tiền đề xây dựng, khắc họa tính cách và tâm lí nhân vật, nhờ đó nhân vật có cơ hội bộc lộ những vẻ đẹp tâm hồn của mình
- Thông qua nhân vật Tràng, tác giả đã thể hiện khả năng khám phá và phân tích tâm lí nhân vật điêu luyện và tài tình
- Tác giả cũng sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt thành công khiến nhân vật hết sức chân thực, sống động, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc
- Cách sắp xếp sự kiện và lựa chọn chi tiết đặc sắc -> tạo được sự hứng thú
3) Nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân được thể hiện qua nhân vật
- Đồng cảm, xót thương cho nỗi đau khổ, bất hạnh của con người trong nạn đói 1945.
- Phát hiện và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người trong hoàn cảnh khốn cùng nhất:
+ Vẻ đẹp của lòng lạc quan yêu đời
+ Vẻ đẹp của tình người, nhân hậu và đầy yêu thương
+ Vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.
-> Kim Lân chia sẻ: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị của tác phẩm và vị trí của tác giả