Bài soạn “MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA”
(Hoài Thanh)
Câu
1:
Theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ mới là gì? Và tác giả
đã nêu ra cách nhận diện như thế nào?
Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là:
+ Ranh giới giữa thơ mới và thơ cũ không phải lúc nào
cũng rõ ràng, dễ nhận ra. Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở.
Gía mà thơ cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những
bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới
lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện biết mấy. Khốn nỗi cái tầm thường,
cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần của thơ một
cách đúng đắn thì phải sánh bài hay với bài hay chứ không thể sánh với những
bài dở hơn.
+ Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ nét
đặc sắc mỗi thời thì ta phải nhìn vào đại thể, không thể nhìn vào cục bộ, tiểu
tiết. Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa hay thơ cũ và thời nay hay thơ mới
có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước thì là cái ta, giờ đây lại nổi bật lên cái tôi.
Tác giả đã đưa ra sự phân biệt: “Gía các nhà thơ mới cứ
viết những câu như hai câu vừa trích trên này thì tiện cho ta biết mấy. Nhưng
chính Xuân Diệu còn viết:
Người giai nhân: bến
đợi dưới cây già;
Tình du khách:
thuyền qua không buộc chặt.”
Trong khi đó một nhà thơ cũ khác lại có những câu thơ
nhí nhảnh và lả lơi:
“Ô hay! Cảnh cũng
ưa người nhỉ
Ai thấy ai mà chẳng
ngẩn ngơ?”
Để
rồi ông thấy được cái khó khăn của việc tìm ra thơ mới là thơ mới nó chỉ so
sánh bài hay với bài hay, và nó phải nhìn vào đại thể để xem xét chứ không thể
nhìn vào cục bộ, bộ phận hay tiểu tiết nhỏ. Bởi lẽ những cái nhỏ, cái tiểu tiết,
cái dở sẽ không đủ tư cách để đại diện cho một thời đại nghệ thuật, một thời đại
thi ca.
Câu
2:
Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam bấy giờ là gì?
- Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam
bấy giờ là “cái tôi”. Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa hay thơ cũ và thời
nay hay thơ mới có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước thì
là cái ta, giờ đây lại nổi bật lên
cái tôi.
- Cái tôi đối lập với cái ta, cũng có lúc những bậc kì
tài xuất đầu lộ diện, thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh của họ trong văn thơ.
Song dù có táo bạo đến đâu thì họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để
nói chuyện với mình, họ không tự xưng, họ không ẩn mình sau chữ ta, một chữ có
thể chỉ chung cho nhiều người. Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn sự cô đơn. Vậy
nên những tác phẩm của họ ra đời, đoàn thể đã dành làm của chung, lắm khi chẳng
thèm ghi tên họ.
- Những ngày đầu, chữ tôi xuất hiện thật sự bỡ ngỡ. Nó
như lạc loài nơi đất khách bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy là
quan niệm cá nhân. Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể, lớn
thì quốc gia, nhỏ thì gia đình, còn cá nhân thì chìm đắm trong gia đình.
- Khi chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện
giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách vô cùng khó chịu. Nó
luôn đi theo những chữ anh, bác, ông. Huống bây giờ nó lại đến một mình! Nhưng
ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ, nó được vô số người thương và
quen.
Câu
3:
Phân tích vì sao tác giả nói “chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó” lại
“đáng thương” và … “tội nghiệp”.
Tác giả đã đề cập đến cái tôi của ngày một ngày hai là
nó đã được chấp nhận bằng những cái nhìn khoan dung, cảm thông. “Người ta thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội
nghiệp quá!”.
Cùng nhìn vào đoạn văn mà Hoài Thanh đã viết:
“Đời chúng ta đã nằm
trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh.
Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng
Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu.
Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn
bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.”
- Như vậy, trên đoạn văn trên ta đã thấy chính cái tôi
của thơ mới đã thổi vào tâm hồn của các nhà thơ những nỗi buồn man mác, bơ vơ lạc
lõng mà không thể đi đâu để giải thoát. Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái hiên
ngang ngày trước. Chữ ta với họ rộng quá. Tâm hồn họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ
chữ tôi. Không tìm thấy ở họ cái khí phách hiên ngang, đến chút tự trọng để
khinh cảnh cơ hàn mà họ cũng không hề có:
“Nỗi đời cay cực
đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với
khách thơ.”
-
Cái tôi của thơ mới đã nói lên cái bi kịch của cả mọt thời đại. “Cả trời thực,
trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất
là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”.
Thời trước là khi mà dẫu có bị oan ức, khinh bỏ thì vẫn có thể nương tựa vào một
gì đó không di dịch. Ngày nay thì lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan
cùng lớp hoa hòe phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta,
nhưng ta lại bang hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều đó là một lòng
tin đầy đủ. => Đó là tất cả bi kịch đương diễn ngấm ngầm dưới những phù hiệu
dễ dãi trong tâm hồn người thanh niên. Bi kịch ấy họ gửi cả vào Tiếng Việt.
Câu
4:
Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời
mình bằng cách nào?
=> Vì vậy,
trong thất vọng vẫn len lỏi đâu đó những hi vọng dù là nhỏ nhoi. Bây giờ hơn bao giờ hết họ thấu hiểu câu nói
can đảm của ông chủ báo Nam phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta
còn, nước ta còn.”
Họ cảm thấy tinh
thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không thể nào tiêu
diệt được nó. Họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm
bảo cho một ngày mai tươi sáng và tốt đẹp hơn.
Câu
5:
Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng vì sao người
đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn?
Tác phẩm “Một thời đại trong thi ca” là một tiểu luận
phức tạp và phong phú nhưng vẫn thu hút được độc giả bởi vì:
- “Một thời đại trong thi ca” đã nêu rõ nội dung cốt yếu
của “tinh thần thơ mới”, lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó ,
xuất hiện trong thi ca đồng thời nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người
thanh niên lúc bấy giờ.
- Tác giả Hoài Thanh đã dùng nghệ thuật lập luận khoa
học, khéo léo, chặt chẽ, thấu đáo, một văn phong tài hoa, tinh tế, giàu cảm
xúc.
- Tác giả có cái nhìn khách quan, biện chứng, đi thẳng
vào vấn đề, so sánh đối chiếu để thấy được sự khác biệt giữa cái tôi cá nhân và
cái ta chung của mọi người.
- Những dẫn chứng đưa ra cụ thể, rõ ràng, có chọn lọc,
gần gũi, dễ hiểu, thu hút. Giọng điệu mềm mại, truyền cảm, uyển chuyển và giàu
cảm xúc.