CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ - NGUYỄN TUÂN 
* CẢM THỤ TÁC PHẨM 
Thông qua câu chuyện "Chữ người tử tù" nhà văn Nguyễn Tuân đã ca ngợi những con người tài đức đó là những con người dù có rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã khốn cùng nào vẫn giữ được cái "thiên lương" cao đẹp, sống hiên ngang, bất khuất, không hề bị khuất 
phục trước uy quyền và bạo lực. Câu chuyện là một khẳng định sự bất tử của cái đẹp. 
1. Nhân vật Huấn Cao: 
- Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân dựa vào nhân vật cụ thể Cao Bá Quát. Cao Bá Quát là một con người thông minh, học giỏi nổi tiếng, rất mực tài hoa, văn hay, chữ tốt nhưng ông không chấp nhận cái triều đại phong kiến thối nát lúc bấy giờ nên đã lãnh đạo phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Về cái chết của ông có hai ý kiến khác nhau: có ý kiến cho rằng ông đã hy sinh trong chiến trận, có ý kiến khác lại cho rằng ông đã bị bắt và bị xử trảm. Điều này cho ta thấy được tấm lòng rất trân trọng của Nguyễn Tuân đối với những người anh hùng đã hy sinh vì nghĩa lớn. Qua đó, ta thấy được tấm lòng ưu ái của ông đối với đất nước. 
- Huấn Cao là một người nghệ sĩ chân chính rất mực tài hoa, hiếm có trong nghệ thuật thư pháp. Ông "viết chữ rất nhanh và đẹp". Chữ viết của ông đã trở thành những bức tranh nghệ thuật và là niềm khao khát của những con người say mê cái đẹp: "có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời". Nhưng Huấn Cao là một con người sống có nhân cách, biết tự trọng. Ông luôn luôn đặt chữ tâm trên chữ tài, trên cả bạc vàng, địa vị: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết 
câu đối bao giờ". Cho nên xin đượ chữ của ông không phải là chuyện dễ, không phải ai cũng xin được trừ ba người bạn tri âm, tri kỷ của ông: "Tính ông vốn khoảng, từ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ". Tuy vậy, nhưng khi ông "thấy cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục thì ông lại bằng lòng cho chữ "nào ta có biết đâu một người thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". 
Những lời khuyên của Huấn Cao với viên quản ngục đã thể hiện rõ quan điểm thống nhất giữa cái tâm và cái tài, giữa cái đẹp và cái thiện: "Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời con người", "tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ cái thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời người lương thiện đi". Lời khuyên chân thành này của Huấn Cao đã gây xúc động mạnh và cảm hoá được viên quản ngục: "Ngục quan cảm động, vái người tử tù một cái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "kẻ mê muội này xin bái lĩnh"". 
- Huấn Cao là một người anh hùng, đầy khí phách, sống hiên ngang không hề khuất phục trước uy quyền và bạo lực: Huấn Cao là một lãnh tự của phong trào nông dân khởi nghĩa, ngang nhiên chống lại triều đình, Khi bị bắt, cổ đeo gông, bị giải vào nhà lao chờ ngày xử chém ông vẫn ung dung, không hề sợ sệt: "Huấn Cao đứng đầu gông, quay cổ lại bảo mấy bạn đồng chí : rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông đi". Lời viên quản ngục nói với thầy thơ lại càng làm nổi bật cái tài và cái khí phách của Huấn Cao: "Thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khoá và vượt ngục nữa không?". Trong tù "Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm", Huấn Cao còn khinh bỉ viên quản ngục, kẻ nắm trong tay quyền lực có thể hành hạ, đánh đập mình vì ông những tưởng viên quản ngục này cũng như bao nhiêu viên quản ngục khác. Thái độ khinh bỉ của ông được thể hiện khá rõ trong câu trả lời câu hỏi của viên quản ngục: "Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất", "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". 
- Huấn Cao là một con người rất yêu cái đẹp, cái thiện. Chính vì vậy mà ông cảm thông được tấm lòng biết yêu cái đẹp của viên quản ngục, cho chữ viên quản ngục. Và cũng chính vì có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện nên Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên về quê, rời bỏ cái nghề quản ngục để giữ lấy cái đẹp và cái thiện. Tóm lại, Huấn Cao là một nhân vật toát lên một vẻ đẹp khá toàn diện. Ông vừa là một con người rất mực tài hoa vừa là một con người hiên ngang khí phách, sống với một mục đích, lý tưởng cao đẹp bất chấp cả uy quyền và bạo lực. Ông luôn luôn đặt chữ "tâm" trên chữ "tài" và có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện. Cái đẹp và cái thiện phải luôn luôn đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau được. Huấn Cao quả là một nhân vật thật lý tưởng. 
2. Nhân vật viên quản ngục 
- Viên quản ngục là một con người biết quí trọng kẻ tài đứng: khi mới nghe sáng mai lính tỉnh sẽ dẫn đến sáu tên tù án chém, trong đó có Huấn Cao thì lòng viên quản ngục cảm thấy băn khoăn, thương tiếc: "Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son một cây đèn để leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương". Đêm đã về khuya, nhưng "nơi góc chiếc án thư vàng son đã nhợt, đã mờ, đĩa dầu sở trên cây nến vơi lần mực dầu" viên quản ngục vẫn ngồi đấy, rất hiền từ. Hình ảnh: "đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhã nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ" của viên quản ngục chính là bản chất lương thiện vốn có của ông, cái bản chất mà bấy lâu nay sống trong cái cảnh tối tăm của đề lao với việc coi ngục của ông đã bị che lấp đi. Huấn Cao xuất hiện như một nguồn ánh sáng, khơi dậy lại trong ông cái bản chất lương thiện của ông. Và chính tác giả đã khẳng định: "Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn độn xô bồ". 
Chính cái bản chất vốn có của viên quản ngục được đánh thức nên : "Viên quản ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể ngục quan còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao" và ngày ngày cho người thơ lại mang rượu thịt vào cho Huấn Cao. Khi ông bị Huấn Cao thốt lên câu nói đầy khinh bạc: "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây ". Viên quản ngục vẫn nhẫn nhục chịu đựng với bao nỗi khổ tâm và lễ phép chấp nhận lui ra với câu nói "xin lĩnh ý". Điều đó đã cho ta thấy tấm lòng kính trọng của viên quản ngục đối với những người có tài như ông Huấn Cao, đồng thời cũng thể hiện niềm khát khao mãnh liệt của viên quản ngục mong có được chữ viết của ông Huấn Cao. Theo ông có được chữ viết ấy là có được "một báu vật trên đời". Trong cảnh cho chữ, ta thấy thái độ của viên quản ngục thật trân trọng, đầu óc của ông như căng ra đầy xúc động: "người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên mặt phiến lụa óng". Sau khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên bảo, viên quản ngục càng xúc động, nức nở, nghẹn ngào, xin nghe theo lời dạy của Huấn Cao: "Ngục quan cảm động, vái người tù một cái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "kẻ mê muội này xin bái lĩnh"". Quả đúng như điều nhà văn đã nói ở trên: "Ông trời nhiều khi chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và người thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt". Nhưng ta tin một điều là viên quản ngục sẽ về quê, từ bỏ cái nghề coi ngục để giữ "thiên lương cho lành vững" và vui với cái đẹp như ông Huấn Cao mong muốn. 
Tóm lại, tuy sống bằng cái nghề độc ác, tàn bạo, nhưng viên quản ngục là một con người biết quí trọng kẻ có tài, biết yêu cái đẹp, trân trọng với cái đẹp, biết nghe theo lời khuyên bảo của Huấn Cao để trở về với cái thiện và giữ lấy cái đẹp. 
3. Cảnh cho chữ : 
Cảnh cho chữ diễn ra ở cái thời điểm đêm đã về khuya và trong một cái không gian chật hẹp, tối tăm của nhà ngục với "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Trong cảnh này, tác giả đã khéo tạo những hình ảnh đối lập. Thứ nhất là sự đối lập giữa cái đẹp của "tấm lụa trắng tinh", "phiến lụa óng", "nét chữ vuông tươi tắn", thoi mực thơm" với cái dơ dáy, bẩn thỉu của "buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Thứ hai là sự đối lập giữa hình ảnh người tù "cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván" với hình ảnh viên quản ngục "khúm núm" và thầy thơ lại gầy gò "run run bưng chậu mực". 
Sự đối lập thứ nhất cho ta thấy giữa cái ác, nơi tăm tối của nhà ngục cái đẹp vẫn sống, không hề bị tiêu diệt. Trong sự đối lập thứ hai ta thấy một sự chuyển hoá quyền lực. Viên quản ngục nắm trong tay quyền hành hạ, đánh đập Huấn Cao lại trở thành "khúm núm" trước Huấn Cao. Đó phải chăng chính là sức mạnh của cái đẹp, cái thiện đã chiến thắng cái xấu cái ác. 
Điều cuối cùng trong cảnh cho chữ là lời Huấn Cao khuyên bảo viên quản ngục: "Thầy Quản nên về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi" và thái độ cảm động của viên quản ngục trước lời khuyên đó và hứa nghe theo "kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Đây là một điều có nghĩa thật vô cùng sâu sắc và độc đáo. Phải chăng với điều này tác giả như muốn nói với chúng ta rằng: giữa cái ác, cái đẹp vẫn không bị tiêu diệt, nhưng cái đẹp không thể sống chung với cái ác, cái đẹp vẫn phải đi đôi với cái thiện. Muốn thưởng thức cái đẹp tâm hồn con người phải có lương thiện, trong sáng, thanh cao.
                                                                         

                                                                      Đề 1  

Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
1. Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa - khí phách. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, ngòi bút ấy đã biết hướng thiện, hướng mỹ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời những vẻ đẹp của một thời vang bóng. Trong nhiều vẻ đẹp của Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, nổi lên một vẻ đẹp chói lòa, rực rỡ, vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù nổi tiếng của ông. 
2. Nhân vật Huấn Cao được sáng tạo từ một nguyên mẫu có thực trong cuộc đời: đó là nhà thơ Cao Bá Quát anh hùng khí phách lại nổi tiếng viết chữ đẹp một thời. Nguyên mẫu vốn đã đẹp, nhưng khi đi vào tác phẩm, nhờ điển hình hoá nghệ thuật, đã trở thành một hình tượng nhân vật lung linh tỏa sáng với ba vẻ đẹp rực rỡ chói loà: vẻ đẹp của tài hoa; của khí phách hiên ngang bất khuất, của "thiên lương" trong sáng. Ba vẻ đẹp này không tách rời nhau mà gắn bó chặt chẽ với nhau để làm nên vẻ đẹp của nhân vật lí tưởng của Nguyễn Tuân. Và nhà văn, với nghệ thuật già dặn, khi miêu tả trực tiếp, lúc miêu tả gián tiếp, lúc đặc tả thành ấn tượng nổi bật, luôn đặt nhân vật vào những tình huống nổi bật, luôn đặt vào nhân vật vào những tình huống để thử thách và trong quan hệ đối sánh với viên quản ngục và thầy thơ lại... tất cả đã làm bật nổi lên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao. 
a) Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường. Ông viết chữ rất đẹp. Đây là viết chữ Hán, một nghệ thuật, một thú chơi tao nhã của người xưa gọi là thư pháp. Người ta treo chữ đẹp (hoặc viết trên lụa, hoặc khác trên gỗ phủ sơn mài) trong nhà, nơi trang trọng nhất như treo những bức họa quí. Tài viết chữ của Huấn Cao như thế nào, cứ xem thái độ của viên quản ngục thì rõ: "Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết. 
Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (...) có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời". Tất nhiên, chữ ông Huấn Cao phải đẹp lắp, quí lắm thì viên quản ngục và thầy thơ lại mới phải kiên trì và dụng công đến như thế trong cách đối xử "biệt nhỡn" đối với ông để mong được ông cho chữ. Mà đâu phải chỉ có kiên trì và công phu. Còn phải dũng cảm nữa. Bởi vì biệt đãi một tên tử tù là một việc làm rất nguy hiểm. Mới biết chữ ông Huấn Cao đẹp đến chừng nào qua ước mơ và hành động của viên quản ngục. 
b) Huấn Cao cũng là một con người có khí phách khác thường. Một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường mà không hề tỏ ra nao núng, vẫn ung dung đường hoàng. "Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là ...". Khí phách anh hùng của Huấn Cao cũng được làm nổi rõ trong quan hệ với viên quản ngục. Viên quản coi tù này hoàn toàn có quyền dùng những thủ đoạn tàn bạo đối với ông, nhưng ông chẳng những không sợ mà còn "cố tình làm ra khinh bạc đủ điều". Ngục quan vào gặp ông trong nhà giam "khép nép" hỏi: "Vậy ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất", ông trả lời thẳng: "Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Một tử tù mà đáp lại lời cầu xin của ngục quan như vậy, xưa nay thật hiếm có. Nhưng quản ngục chẳng những không nổi nóng mà còn tỏ ra kính nể hơn nữa, bởi vì "y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù". 
c) Tuy nhiên Huấn Cao không phải là con người có trái tim bằng thép. Đúng là tiền bạc và quyền thế không lung lạc được ông. Ngay cả việc cho chữ cũng vậy, ông đã nói: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ". Cho nên khi tưởng rằng người quản ngục trong cái trại giam này cũng giống như mọi tên quản ngục khác, nghĩa là kẻ đại diện thô bạo của quyền lực phi nghĩa, thì ông tỏ ra hết sức cứng rắn. Nhưng khi hiểu rằng đây là một tâm hồn trong sáng lạc vào giữa đám người "cặn bã", ông liền thay đổi thái độ. Hoá ra con người ấy cũng có lúc mềm lòng: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Đây là cái mềm lòng của một "thiên lương" trong sáng, một "chữ tâm" cao cả đã khiến Huấn Cao sẵn sàng cho chữ ngục quan - dòng chữ cuối cùng của một đấng tài hoa và một bậc anh hùng nghĩa sĩ. Và ta hiểu ông cho chữ ngục quan không chỉ vì mục đích chơi chữ đơn thuần, mà chủ yếu là cho chữ để cứu người, cứu một con người đã lầm đường lạc lối, như ta đã thấy trong cảnh cho chữ ở cuối truyện. 
d) Ba vẻ đẹp nói trên - tài hoa, khí phách, thiên lương - của nhân vật đã được đẩy lên đến đỉnh cao và bộc lộ sáng lòa trong hình tượng lẫm liệt của Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Cảnh cho chữ được nhà văn đặc tả thành "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có" ở chốn lao tù đã tôn cao vẻ đẹp của nhân vật và bộc lộ sâu sắc chủ đề tác phẩm. "Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ (...). Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh (...) Người từ viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực (...) Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo: 
- Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi (...). Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không? .... Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về nhà quê ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". 
Đoạn văn đã sử dụng thành công bút pháp đối lập: đối lập ánh sáng và bóng tối, cái đẹp và sự bẩn thỉu hôi hám. Và người tử tù, tuy cổ đeo gông, chân vướng xiềng, nhưng tư thế thì hiên ngang lồng lộng trước sự khúm núm đầy cảm phục của người quản ngục. Đó là sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương kết tinh cao độ ở hình tượng lẫm liệt của Huấn Cao đối với bóng tối, sự nhơ bẩn của một xã hội phi nghĩa. Và khi người quản ngục vái người tử tù một vái, chắp tay nghẹn ngào nói: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh" thì không phải chỉ là tạ ơn người đã cho chữ mình mà là vái một nhân cách đẹp: vẻ đẹp của tài hoa, của khí phách anh hùng và của thiên lương trong sáng cao cả. 
3. Ba vẻ đẹp trên đây hội tụ ở một con người đã làm nên vẻ đẹp của nhân vật lí tưởng trong tác phẩm của Nguyễn Tuân: con người tài hoa - khí phách. Với hình tượng Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã sáng tạo được một nhân cách kiêu dũng, bất khuất trong vị thế một người tử tù trong một truyện ngắn trang nghiêm, cổ kính. Hình tượng ấy, không chỉ biểu lộ cái tài, mà còn biểu lộ sâu sắc cái tâm hướng thiện - hướng mỹ của nhà văn lớn Nguyễn Tuân.

                                                              ĐỀ 2

                                   Phân tích cảnh cho chữ - chữ người tử tù
Nguyễn Tuân là một trong năm tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có đóng góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạc nên những kiệt tác văn học độc đáo. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”của ông cũng chứa đụng những nết đẹp đó.
Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức. Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết cũng như người thưởng thức. Cảnh cho chũ thường được diễn ra tại những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chũ uyển chuyển mang trong nó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng cũng những nét chữ uyển chuyển có hồn ấy, Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ, “ một cảnh xưa nay hiếm”. Đó là cảnh cho chữ trong tác phẩm:”chữ ngươi tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có đóng góp rất lớn cho nền văn học nước nhà đặc biệt là ở thể tùy bút. Nguyễn Tuân có nhiểu tác phẩm hay như: Một chuyến đi, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, sông Đà, Vang bóng môt thời,... Vang bóng một thời là một trong những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất trong kho tàng văn học Việt Nam.
Truyện ngắn “chữ người tử tù” ban đầu có tên là “dòng chữ cuối cùng”. Đây là tác phẩm kết tinh tài hoa của Nguyễn Tuân trước Cách Mạng và được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “ một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn thiện, toàn mĩ”. Nhân vất chính trong truyện ngắn này là Huấn Cao- một con người văn võ song toàn. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp. Ông không chỉ cái cái tài về nghệ thuật thư pháp mà còn có cái trí tuệ uyên bác. Từng nét chữ của ông ẩn chứa cả văn hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không chỉ để chiêm ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, mà còn để ngẫm nghĩ những tư tưởng sâu sắc. Nhưng “ tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời”. Không chủ có tài về nghệ thuật, ông Huấn còn là người có thiên lương. Tính ông chính trực, khẳng khái, không vì tiền bạc, quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ. Gặp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm, khiến người đọc dễ dáng liên tưởng tới người thủ lĩnh tài ba văn vó phong toàn, người anh hùng dân tộc Cao Bá Quát. Được nhân dân ca tụng :
“ Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.
Thật vậy, ngay lúc bước vào tù lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông Huấn không những không mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng “ thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Lúc bị giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản nguc, ngày ngày đưa rượu thịt vào cho ông và các đồng chí, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bược vào buồng giam của ông thêm lần nào nữa.
Một con người có tài năng về nghệ thuật, có thiên lương cao đẹp, lại có khí phách ngang tàn và tính khoảnh như Huấn Cao tưởng chừng như sẽ không bao giờ chịu chấp nhận tặng chữ của mình cho viên quản ngục. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng và sở thích cao quý của viên quản ngục, biết ông đã bất chấp cả tính mạng của mình vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã thay đổi định kiến về một kẻ tiểu lại giữ tù như ông , ân hận vì thiếu chút nữa “ đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” và quyết định tặng chữ cho ông. Chính lúc này, thiên lương của ông đã tự tỏa sáng, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tỏa sáng cả căn buồng giam chật hẹp ẩm thấp đầy phân rán phân chuột hôi hám. Trong chính cái đêm hôm ấy, cái đẹp đã lên ngôi. Từ một viên quản ngục hàng ngày khét tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm. Một kẻ tử tù, “ cổ đeo gông, chân vướng xiềng” lại đĩnh đạc, làm chủ nơi ngục tù. Kẻ tử tù ấy dù bị giam hãm về thể xác nhưng nhân cách y lại tự do khác hẳn với kẻ tưởng chừng tự do nhưng lại bị trói buộc cả tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác ngự trị này. Nơi ngục tù tăm tối ấy, đêm nay lại diến ra “ cảnh xưa nay chưa từng có”. Cảnh cho chữ- cho một vật báu trên đời lại được diễn ra tại nơi tối tăm chật hẹp. Cái ánh sáng của ngọn đuốc cháy đỏ rực xóa tan bóng đêm tăm tối. Mùi thơm từ chậu mức bốc lên xoa dịu đi mùi hôi tanh của căn phòng. Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp, vừa vuông của ông Huấn dần hiện ra. Vậy là cái đẹp có thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã huyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững, phải có thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên lương cao đẹp của ông Huấn cũng là sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin “ bái lính” của y chính là sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại tmar hại của cái xấu, cái ác. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi có trăng hoa tuyết nguyêt mà lại ở trong căn buồng tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại là nơi cái đẹp được “khai sinh”, thăng hoa. Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần thiết của khí phách của thiên lương. Người tử tù dù ngày mai có phải chịu án tử hình nhưng kẻ ấy không chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao là hiện thân cho vẻ đẹp hoàn mĩ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần , nhưng tử tưởng đẹp của ông Huấn và từng lờ dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.
Câu chuyện thành công không chỉ vì nó phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà còn vì cái độc đáo khác lạ của tình huống truyện. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là viên quan quản ngục- một công cụ trấn át kẻ tù tội phục vụ cho triều đình, còn người kia là kẻ tử tù chống lại triều đình. Thế nhưng chính cái đẹp đã dẩy hai con người hoàn toàn khác biệt ấy trở thành tri kỉ. Họ là người nghệ sĩ, biết yêu và coi trọng cái đẹp. Cái độc đáo của truyện cũng nằm trong chính từng nhân vật. Huấn Cao-tên tử tù – lại là một nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Viên quản ngục- công cụ trấn át tội phạm của triều đình- lại là con người có mong muốn thưởng thức cái đẹp. Cả câu chuyện mang vẻ cổ kính từ nhân vật, cảnh cho chữ cho đến ngôn ngữ câu văn. Chính nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp vời bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn đã đem đến thánh công cho tác phẩm. Không gian ẩm thấp nơi buồng giam, thời gian đêm tối bóng dáng con người trong đêm và ánh sáng bó đuốc như ánh sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách. Màn đêm tăm tối của ngục từ -hiện thân cho cái ác- lại bị ánh sáng của tài năng, thiên lương làm sụp đổ. Không gian được miêu tả hẹp dần: từ căn phòng đến ánh sáng ngọn đuốc, tấm lục trắng tinh rồi đến từng con chữ vuông vắn.
Dường như, cảnh cho chữ và hình tựng nhân vật Huấn Cao đã giúp Nguyễn Tuân thể hiện thành công phong cách nghệ thuật của mình. Ông luôn hướng tới cái đẹp, cái phi thường lí tưởng, đã đẹp phải tuyệt mĩ, đã tài phải siêu phàm, nhưng cũng có cá tính độc đáo.
Câu truyện kết thúc nhưng dư âm về cái đẹp, cái khí phách hiên ngang và thiên lương cao quí của ông Huấn vẫn còn vương vấn. Người đọc có thể hình dung ra một viên quản ngục từ biệt nơi quan trường đầy thị phi mà trở về quê nhà. Ngày ngày, ông thư thả ngắm bức thi họa củaông Huần ban cho được treo ngay ngắn trong gian giữa ngôi nhà mà trong lòng vẫn khắc sâu lời khuyên răn của ông Huấn.

                                                                     ĐỀ 3

VẺ ĐẸP VIÊN QUẢN NGỤC TRONG TRUYỆN NGẮN "CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ" CỦA NGUYỄN TUÂN
Nếu như nhân vật Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức mạnh hướng thiện của nó, thì nhân vật viên quản ngục được sáng tạo ra là để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên quản ngục thì ý đồ nghệ thuật của nhà văn mới thực hiện được. Nhưng vai trò cực kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng ván, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị.
Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.
Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, không biết quản ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay không ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căn thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn phải dò xét, đề phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận sáu tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên Huấn Cao, rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà còn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài, cô đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông Huấn. Y không oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.

Bài viết gợi ý: