VỘI VÀNG
Xuân Diệu
I - Gợi dẫn
1. Xuân Diệu (1916 - 1985) tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu. Cha ông là thầy đồ xứ Nghệ (quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh), mẹ ông quê Bình Định. Xuân Diệu được thừa hưởng sự uyên thâm, cần cù của nhà nho ở người cha ; là trí thức Tây học, ông được hấp thụ những tinh hoa văn hoá phương Tây. Vì thế, thơ ca Xuân Diệu là sự kết hợp hài hoà hai yếu tố Đông Tây, trong đó yếu tố Tây học được tiếp thu trong nhà trường chính thức có ảnh hưởng đậm hơn. Sau một thời gian làm công chức ở Mĩ Tho, ông thôi việc ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn.
Xuân Diệu bí mật tham gia Hội Văn hoá cứu quốc năm 1943. Năm 1946 được bầu là Uỷ viên quốc hội khoá một của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Suốt từ đó cho đến khi mất, ông từng là uỷ viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam, uỷ viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam nhiều khoá. Đóng góp lớn nhất của Xuân Diệu cho đất nước vẫn là sự nghiệp thơ văn. Ông đã từng đi nói chuyện thơ (hàng trăm buổi) cho nhiều đối tượng nghe. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức. Ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1, năm 1996).
2. Vội vàng là bài thơ tiêu biểu nhất cho nét phong cách nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Tác phẩm được rút trong tập Thơ thơ, tập thơ xuất sắc và tiêu biểu nhất cho thơ Xuân Diệu trước Cách mạng.
Bài thơ thể hiện một tình yêu cuộc sống tha thiết, qua đó thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. So với thơ ca truyền thống, bài thơ mới mẻ về cả tư tưởng và thi pháp.
3. Tình yêu cuộc sống tha thiết mãnh liệt đã dẫn đến quan niệm sống hết mình, sống bằng mọi giác quan. Cái cuống quýt Vội vàng trong cách sống mà Xuân Diệu thể hiện trong bài thơ không phải là lối sống Vội vàng, hưởng thụ cá nhân, mà là sống hết mình. Quan niệm mới mẻ của nhà thơ thể hiện ở hệ thống hình ảnh thơ mới lạ, nhiều sắc màu và tràn đầy cảm xúc. Bài thơ là tiếng ca thúc giục mọi người, nhất là những người trẻ tuổi hãy hết mình với cuộc đời, sống thật nhiều và thật có ý nghĩa.
4. Đọc diễn cảm, chú ý sự thay đổi linh hoạt của nhịp thơ ; nhấn giọng ở các điệp từ, diễn tả cảm xúc nồng nàn, cuồng nhiệt của nhân vật trữ tình thể hiện trong bài thơ.
II - Kiến thức cơ bản
"Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống Vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết"([1]). Đó là nhận xét của hai nhà nghiên cứu Hoài Thanh và Hoài Chân về những cảm xúc về cuộc đời luôn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, thơ ông luôn thể hiện một cách chân thực, nồng nàn và hiện đại nhất những trạng thái cảm xúc của con người trước cuộc sống. Vội vàng là tiếng nói sôi nổi, hăm hở của một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt và là tuyên ngôn cho một quan niệm sống, triết lí sống được thể hiện bằng những hình tượng thơ thấm đẫm cảm xúc. Đây là bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái Tôi thơ mới nói chung mà lại in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu, vừa rất tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo của nghệ thuật thơ ông.
Vội vàng là một bài thơ được xem là thành công và tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế vẻ đẹp cuộc sống, đồng thời thể hiện một quan niệm sống, một triết lí nhân sinh tích cực. Trong không gian văn hoá và điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam những năm ba mươi của thế kỉ XX mà một người thanh niên đang ở tuổi đôi mươi có thể có những vần thơ rạo rực và triết lí sâu sắc như Vội vàng là một minh chứng thuyết phục cho tài năng được đánh giá là "một trong ba đỉnh cao của thơ mới". Bài thơ đã mang đến cho bản nhạc đượm buồn và đậm chất đau thương, tuyệt vọng của thơ mới một khúc ca tràn đầy hi vọng.
Với giọng điệu thôi thúc, cảm xúc gọi nhau tuôn trào từ câu đầu đến câu cuối, Vội vàng lôi cuốn người đọc ngay từ những dòng đầu tiên. Bài thơ mở đầu rất đột ngột bằng một khát vọng lớn :
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất ;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Khát vọng được nhấn mạnh bởi sự lặp lại cấu trúc "Tôi muốn..." trong một đoạn bốn câu thơ năm chữ. Nhịp thơ và cấu trúc ấy đã gợi vẻ cuống quýt, Vội vàng. Nội dung của ý muốn ấy lại càng độc đáo, đó là "tắt nắng" và "buộc gió". Đó là khát vọng níu giữ những vẻ đẹp của cuộc đời. "Màu" và "hương" là những tinh tuý của đất trời. Nhà thơ muốn níu giữ lại vẻ đẹp đó. Nhưng "tắt nắng", "buộc gió" là điều không thể thực hiện. Ngay những dòng thơ đầu tiên đã phảng phất sự bất lực và nuối tiếc của nhân vật trữ tình. Và cũng ngay ở đây, cái Tôi cá nhân của thi sĩ đã xuất hiện với tư thế chủ động trước cuộc đời.
Những câu thơ tiếp theo lí giải cụ thể nguyên nhân dẫn đến khát vọng có vẻ "ngông cuồng" ở những câu đầu. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được miêu tả sinh động và đáng yêu :
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa ;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần ;
Biện pháp điệp từ lại xuất hiện. Này đây có tính chất như một lời liệt kê, một sự xác nhận về sự hiện hữu của những sự vật được nói tới. Tất cả các sự vật ấy lại đều đang ở thì đẹp nhất, tươi non nhất : tuần tháng mật, đồng nội xanh rì, cành tơ, khúc tình si... Mùa xuân được hiện ra bằng vẻ đẹp của tháng giêng tràn trề sức sống xuân thì và tình tứ giao hoà quấn quýt. Ong bướm, hoa cỏ, chim muông, âm thanh và ánh sáng... hiện ra qua những hình ảnh nhân hoá đều tràn đầy hạnh phúc, tươi non mơn mởn, dạt dào sức sống trong một thế giới ngất ngây mộng ảo. Trong con mắt xanh non háo hức của thi nhân, ngày tháng trở thành "tuần tháng mật", âm thanh của thiên nhiên trở thành những giai điệu vô cùng tình tứ. Ta đã từng nghe đến "khúc nhạc hường", "khúc nhạc thơm" (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn) và giờ đây là một "khúc tình si". Còn ánh bình minh lại hiện lên độc đáo qua hàng mi dài của người thiếu nữ chớp mắt làm duyên ( "ánh sáng chớp hàng mi". Nhịp thơ dồn dập, điệu thơ, ý thơ không dứt đã diễn tả được sự vui mừng, niềm khao khát đến cuống quýt của nhân vật trữ tình trước vẻ hấp dẫn của thiên nhiên. Và bức tranh thiên nhiên muôn màu muôn vẻ hiện lên đẹp và tràn đầy sức sống. Xuân Diệu đã chọn từ ngữ, hình ảnh và cách diễn đạt giàu tính hình tượng, gợi cảm và rất hiện đại để bộc lộ những cảm nhận tinh tế của mình về cuộc sống. Cao trào của cảm xúc đã giúp nhà thơ sáng tạo nên một hình ảnh thật đắt về vẻ đẹp của thiên nhiên :
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Đây là một hình ảnh so sánh táo bạo và độc đáo, nó cũng thể hiện được quan điểm thẩm mĩ hiện đại của Xuân Diệu. Quan điểm này trái ngược với quan điểm của thơ ca truyền thống. Nhà thơ đã dùng vẻ đẹp của con người, thậm chí rất con người (cặp môi gần) để diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhà thơ đã cụ thể hoá cái khao khát của con người và vẻ đẹp của tự nhiên với từ ngon. Chữ ngon được dùng rất tài hoa. Nhà thơ cảm nhận cái đẹp của mùa xuân không phải bằng thị giác mà bằng cả vị giác, xúc giác, bằng cả tâm hồn luôn "thức nhọn giác quan" để sáng tạo nên một hình ảnh thơ khoẻ khoắn đầy sức sống không chỉ biểu thị niềm vui say ngất ngây trước thiên nhiên mà còn thể hiện một quan điểm mĩ học mới : Con người là thước đo thẩm mĩ của vũ trụ, vẻ đẹp con người trần thế là tác phẩm kì diệu của hoá công, thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất là vì có con người giữa tuổi trẻ, mùa xuân, tình yêu. Tháng giêng là mùa xuân, mùa của sự đâm chồi nảy lộc, của sự hồi sinh, và đây là thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở. Cho nên với thi sĩ, xuân luôn là thời gian đẹp nhất trong năm. Và để thể hiện điều đó, Xuân Diệu đã chọn một hình ảnh so sánh thật đắt. Bức tranh thiên nhiên ấy đã đủ cho thấy nhà thơ yêu cuộc sống đến nhường nào ! Nhà thơ viết tiếp :
Tôi sung sướng. Nhưng Vội vàng một nửa :
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Câu thơ đượm màu triết lí. Sau phút giây để cảm xúc thăng hoa cùng vẻ đẹp của đất trời, xúc cảm của nhân vật trữ tình tạm lắng xuống và chuyển sang chiều hướng suy tư. Nhà thơ đã hình ảnh hoá triết lí ấy : không thể để những điều tốt đẹp (xuân) qua đi rồi mới thấy nuối tiếc. Tâm trạng "nắng hạ mới hoài xuân" là tâm trạng rất phổ biến của con người. Bởi thông thường, trong cuộc sống, con người thường không coi trọng những gì mình đang có, chỉ khi nó đã qua đi mới thấy nó có ý nghĩa quan trọng và lại nuối tiếc. Vậy "xuân" không chỉ là hình ảnh khái quát cho những vẻ đẹp của thiên nhiên đã được nhà thơ nói đến ở đoạn thơ trên mà có ý nghĩa khái quát chỉ tất cả những gì mà tạo hoá ban tặng cho con người.
Mỗi bài thơ của Xuân Diệu bao giờ cũng là một mạch cảm xúc liên tục. ý thơ nọ gọi và nối với ý thơ kia bằng một mối liên kết tinh tế. Sau triết lí rất khái quát ấy là những dòng lí giải tại sao phải Vội vàng :
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Và xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Những câu thơ là lời bộc bạch chân thành của chủ thể trữ tình. Đoạn thơ tập trung thể hiện và lí giải quan niệm mới của nhà thơ về thời gian. Theo đó, thời gian trôi đi thì không bao giờ trở lại. Nhà thơ đặt thời gian của vũ trụ trong mối quan hệ với thời gian của đời người để giảng giải quan niệm về sự không tuần hoàn của vạn vật :
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Đúng vậy, có thể trời đất còn mãi nhưng con người không thể sống hai lần nên sự tuần hoàn ấy là vô nghĩa. Mọi người vẫn nói, Xuân Diệu là nhà thơ của "cảm thức về thời gian" quả không sai. Nhà thơ rất nhạy cảm với những bước đi vô hình của thời gian. Vì thế, mỗi thời khắc qua đi là một cuộc chia li đầy nuối tiếc và cảm giác mất mát tràn ngập trong tâm hồn thi sĩ. Nhạy cảm về sự mất mát đến mức cảm nhận được cả "Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi ( Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt". Tâm trạng của con người đã thấm sang cả cảnh vật. Thiên nhiên được nhân hoá, cũng biết hờn, biết sợ như con người.
Tình yêu thiết tha đối với cuộc sống đã khiến chủ thể Vội vàng, cuống quýt đến gần như bị ám ảnh. Nó cho thấy con người ấy yêu cuộc sống và quý trọng những giây phút của cuộc đời đến nhường nào. Thái độ ấy của thi nhân thể hiện một quan điểm sống rất tích cực và tiến bộ. Vội vàng không có nghĩa là chỉ lo hưởng thụ, là sống gấp, mà là sống hết mình, sống tốt, nghĩa là phải biết quý trọng những giây phút của cuộc đời mình để khi thời gian trôi đi không còn phải nuối tiếc quá nhiều. Nhà thơ đã cất tiếng giục giã :
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm
Thời gian vẫn còn, cuộc sống vẫn luôn rất đáng yêu vì thế hãy sống bằng mọi giác quan, bằng cả trái tim và khối óc, để hưởng tụ cuộc sống quý giá này. Khổ thơ cuối cùng đã diễn tả đặc biệt thành công khát vọng sống đang sôi trào mạnh mẽ trong trái tim thi sĩ trẻ :
Ta muốn ôm...
Từ Tôi muốn đã chuyển thành Ta muốn, thể hiện sự tăng tiến của khát vọng. Lúc đầu còn e dè, là "tắt nắng", "buộc gió". Khát vọng lớn nhưng còn trừu tượng và chung chung. Và dường như chỉ mới dừng lại ở khát vọng níu giữ vẻ đẹp cuộc sống. Còn bây giờ là khát khao hưởng thụ. Và khao khát đó trào dâng rất mãnh liệt. Cảm xúc đó được thể hiện ở việc chọn dùng từ, cấu trúc, biện pháp tu từ trong đoạn thơ cuối cùng :
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi ;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Đoạn thơ xuất hiện hàng loạt động từ và đều là động từ mạnh cùng với những tính từ có khả năng biểu hiện cảm xúc mạnh đã bộc lộ được trạng thái cảm xúc cao trào của nhân vật trữ tình. Dường như anh muốn hoà tan mình vào đất trời cây cỏ. Niềm khao khát sống, khao khát giao cảm với đất trời và cuộc đời được bộc lộ mạnh mẽ nhất ở câu thơ cuối :
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Có lẽ chỉ có Xuân Diệu với một tình yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt say mê mới có thể táo bạo và tạo được sự thăng hoa cảm xúc tới mức này. Không còn là ôm, là riết nữa mà là cắn. Xuân Diệu đã sáng tạo cho thơ Việt Nam một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo và đã chứng minh rằng tình yêu cuộc sống có thể đẩy cảm xúc của thi nhân đến đỉnh cao của sáng tạo.
Vội vàng là một dòng cảm xúc chân thành thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ. Giọng điệu, hình thức câu thơ thay đổi linh hoạt với một thế giới hình ảnh đa dạng và phong phú đã tạo nên sức hấp dẫn của thi phẩm. Xuân Diệu đã sáng tạo một hình thức độc đáo để thể hiện những triết lí nhân sinh và quan niệm sống tích cực và sâu sắc. Đặt bài thơ trong không khí của Thơ mới thì mới cảm nhận được tình yêu cuộc sống của nhà thơ mãnh liệt đến chừng nào.
Những sáng tạo của Xuân Diệu trong Vội vàng đã góp phần đánh dấu bước phát triển mới của thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Cái Tôi cá nhân vốn còn xuất hiện dè dặt trong thơ ca truyền thống, đến Xuân Diệu đã có những bước đi đàng hoàng và chắc chắn lên văn đàn văn học Việt Nam.
ĐỀ 1
Phân tích 13 câu đầu bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.
Thời đại thơ mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của thơ ca Việt Nam. Thời điểm thơ văn khoát lên cho mình một chiếc áo được cách tân mới mẻ, là mảnh đất màu mỡ vun trồng những hồn thơ tài ba như: Tản Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu,… Theo như Hoài Thanh nhận định Tản Đà là người “ đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì có lẽ Xuân Diệu là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng bạn đọc khi cho ra đời tập : “Thơ thơ” được xem là đỉnh cao trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Vội vàng” được trích từ tập thơ ấy, tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về nội dung và hình thức của Xuân Diệu. “Một hồn thơ rạo rực băn khoăn trong những câu thơ lời ít ý nhiều như đọng lại bao tinh hoa”
Giữa lúc ta lên tiên cùng Tản Đà, đắm chìm trong mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử,.. thì Xuân Diệu là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lòng yêu đời yêu cuộc sống tha thiết đã khiến tâm hồn của thi sĩ bám chặt lấy cuộc sống trần thế, không thoát ly hoàn toàn như các nhà thơ khác. Với đời, ông có một khát khao cháy bỏng:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Nhà thơ sử dụng những câu thơ ngắn với âm điệu nhanh, ngôn ngữ thơ dứt khoát để thể hiện ứơc muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian. Bởi lẽ thời gian là nỗi ám ảnh nhất trong cuộc đời:
“Ôi đau đớn ! Ôi đau đớn ! Thời gian ăn cuộc đời”
(Bauxtelaire)
Là một hồn thơ rạo rực, tha thiết với đời, ông muốn tận hưởng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của trần thế nhưng ngặt một nỗi:
“Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai”
(Tục ngữ)
Vì thế thi nhân rất trân trọng những giây phút tươi đẹp của cuộc đời. Người dùng tất cả giác quan tạo hoá ban tặng để cảm nhận thời gian. Thời gian vốn vô hình, vô vị, vô tình đi vào thơ Xuân Diệu bỗng rất hữu hình, nên thơ qua hình ảnh “nắng”, “gió”. Từ “tôi muốn” được điệp lại kết hợp với những động từ mạnh như “tắt” (nắng), “buộc” (gió) thể hiện một tư thế chủ động muốn đóng băng thời gian vì một lẽ đời tươi đẹp phía trước:
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật
-------------------------------------------------
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”
Những câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất, đẹp đẽ nhất. Chim chóc, hoa lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mựơt mà. Cảnh vật không tĩnh lặng mà náo động linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của thi sĩ. “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu rất lãng mạn. Tiếng hót của chim yến chim oanh trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao con người yêu cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hoá như một nàng tiên e thẹn với những ánh mi dài cuốn hút vạn vật. Tất cả như chan hoà làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời. Từ đó cái đẹp của mùa xuân thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân, đương thì. Qua đó, ta thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽ lại những hình ảnh ấy với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở. Nói bóng bẩy như Vũ Bằng thì thứ thứ nhựa sống mỡ màng ấy như “ máu căng lên trong lộc của loài nai, như những mầm non háo hức muốn bức ra từ những thân cây”. Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất “tháng giêng” , tươi mới nhất ”mỗi buổi sớm”, để miêu tả khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi ,xinh đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ còn tạo nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt từ xúc giác ”tuần tháng mật”, thính giác ”khúc tình si”, thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.
Tâm hồn của thi nhân rạo rực, tha thiết, bâng khuâng trước cảnh trần thế xinh đẹp vô cùng đã khơi nguồn nên những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồn người, hồn của thiên nhiên đất trời như giao hoà để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
”Tháng giêng” vốn vô hình bỗng trở nên hũư hình căng đầy một tình yêu trần thế. Một thứ tình cảm rạo rực, cháy bỏng trong tâm hồn thi nhân đã được dồn nén kết tụ trong một từ “ngon” duy nhất rất tài hoa. Câu thơ với điểm nhấn là từ “ngon” được dùng rất đắt thể hiện một quan điểm mĩ học rất mới mẻ về sự cảm nhận thiên nhiên phản phất sắc thái của “nhục thể”. Tuy vậy, ý thơ không gây thô tục mà có phần mới lạ. Nhà thơ cảm nhận rất tinh tế ý vị của thời gian nên có sự chuyển đổi xúc giác sang vị giác. Quả thật, Xuân Diệu bên cạnh có đôi mắt nhìn đời rất tinh tế còn có một tâm hồn rất thiết tha, nhạy cảm với cuộc sống.
Những câu thơ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”,”Của yến anh này đây khúc tình si” và ” Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang một quan điểm mĩ học rất mới so với thơ ca truyền thống trước đó. Thơ trung đại con người được các nhà văn, nhà thơ tạo tác trên những chuẩn mực của thiên nhiên. Bút pháp ước lệ tượng trưng luôn gắn liền với việc miêu tả con người:
“Râu hùm, hàm én, mày ngài”
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”
(Nguyễn Du)
Thế mới thấy thơ Xuân Diệu đã hoàn toàn lột xác và hướng về một nguồn quan điểm mới rất gần với shakespears:
“Con người là kiểu mẫu của muôn loài”
Nhà thơ đã lấy con người làm khuôn mẫu để tạo ra những hình thái thiên nhiên mang một sức hấp dẫn kì lạ, một sự tươi mới chưa từng có. Người cảm nhận thiên nhiên bằng một lăng kính trái hình với thi ca thời xưa . Qua đó, ta thấy thêm tin yêu một hồn thơ mới đã đem đến cho ta một hình ảnh đầy thi vị, một ánh màu mới mẻ trong thơ ca.
“Thơ Xuân Diệu là một niềm khát khao giao cảm với đời”
(Nguyễn Đăng Mạnh)
Hình ảnh của cuộc sống đi vào thơ Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng kính tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng chảy của thời gian. Thời điểm vạn vật đang căng tràn nhựa sống cũng chính là lúc đang đứng trên ranh giới của sự lụi tàn, héo úa. Vì thế từ những câu thơ gãy gọn ở khổ đầu, nhà thơ đi vào khổ hai với những câu thơ dài, âm điệu chậm như bước chân người thư thái dạo ngắm vườn xuân muốn tận hưởng giờ khắc huy hoàng ấy. Thi sĩ từ tốn chỉ cho người đọc những gì tinh hoa, tươi đẹp nhất của trần gian với một thái độ mến yêu, trân trọng” này đây”.
Đọc thơ Xuân Diệu, ta thấy từng dòng chữ rất mới, những tư tưởng tiến bộ thoát ly hoàn toàn những khuôn sáo cổ điển, tuy say mà tỉnh, mộng nhưng thực. Cảnh sắc xuân như xô đẩy câu thơ, khuôn khổ thơ bị xê dịch như “một đống hỗn độn đẹp xô bồ vừa say dậy”(Bích Khê). Đó là điều khiến thơ của thi sĩ từng bước chứng tỏ sức sống mãnh liệt qua thời gian mặc dù người khen rất nhiều người chê cũng không ít.
Tóm lại, đoạn thơ thể hiện một một khát vọng sống thiết tha mãnh liệt rất trần đời. Một hương vị lạ góp phần làm đa dạng sự mới mẻ trong phong trào thơ mới. Dù rằng thơ Xuân Diệu mang một phong cách rất Tây nhưng nhìn chung lầu thơ của ông được xây dựng trên mảnh đất thơ ca truyền thống. Sự tiếp thu những tư tưởng mới, biết hoà nhập nhưng không hoà tan là nét chung rất đáng ngợi ca khâm phục của Xuân Diệu nói riêng và các nhà thơ mới nói chung. Vì thế Xuân Diệu xứng đáng là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh).
ĐỀ 2
Leptônxtôi từng nói:
“Khi đọc xong tác phẩm văn học, hứng thú chủ yếu là tính cách tác giả được thể hiện trong đó”.
Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến trên? hãy làm sáng tỏ vấn đề qua bài thơ “ Vội Vàng” của Xuân Diệu.
Mở bài
Khi chúng ta làm quen với một người lạ, cái để lại ấn tượng trong ta và cũng là cái quyết định xem ta có muốn thân thiết, hoặc tạo khoảng cách với họ, không chính là tính cách của người đó, tính cách là nét đặc trưng và là ấn tượng của mỗi người trong lòng người khác. Không những trong cuộc sống mà trong văn học cũng vậy, điều để lại ấn tượng và cảm tình đối với người đọc đó chính là phong cách nghệ thuật của tác giả. Nhà văn Nga Leptônxtôi đã từng nói rằng: “khi đọc xong tác phẩm văn học, hứng thú chủ yếu là tính cách tác giả được thể hiện trong đó”. Thật đúng như vậy, và điều này được thể hiện rõ ràng qua bài thơ “Vội Vàng” của Xuân Diệu, một bài thơ hay và mang lại nhiều rung cảm trong lòng người đọc.
Thân bài.
Giải thích nhận định của Leptônxtôi
Thông thường người ta hay nói đến tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học, nhưng ở đây nhà văn Leptônxtôi lại đề cập đến tính cách tác giả. Đây là cách nói mới mẻ và đầy đủ ý nghĩa, ta hiểu tính cách tác giả ở đây chính là phong cách nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ nhưng phong cách nghệ thuật ấy được hình thành nên từ lối sống quan niệm sống và ảnh hưởng bởi cuộc sống thực tại, sự trải nghiệm cuộc đời của người nghệ sĩ. Ý kiến của LepTônxtôi nhằm khẳng định vai trò và ý nghĩa của phong cách nghệ thuật trong sáng tác văn chương. Phong cách của người nghệ sĩ trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật là rất quan trọng, phong cách của nghệ sĩ chính là cái khác, cái nổi bật để tạo nên sự ấn tượng cho người đọc và để phân biệt với các nghệ sĩ khác. Mỗi con người sinh ra có một giọng nói riêng, mỗi loài chim có một tiếng hót riêng, từng loài hoa có vẻ đẹp riêng tư riêng và người nghệ sĩ cũng vậy cũng cần phải có phong cách của riêng mình, bởi đó chính là thước đo cho sự vươn tới thành công tạo ấn tượng trong lòng người đọc của nhà văn, nhà thơ thực thụ tài năng.
Phân tích bình luận ý kiến của Leptônxtôi
Sê khốp từng nói nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn học được, vì sao lại như vậy? chúng ta biết rằng xã hội nào văn học đấy, cùng sống trong một hiện tượng xã hội, cùng nhận thức được vấn đề của sự việc, nếu mỗi người nghệ sĩ cũng không có phong cách riêng của mình tạo cho mình cách nhìn mới mẻ mẻ, không biết khám phá những điều chưa ai khám phá thì tác phẩm của họ sẽ chẳng có nét gì nổi bật, thậm chí bị chìm xuống so với những tác phẩm nghệ thuật khác, bởi độc giả không có chút ấn tượng gì với một tác phẩm không có sức hút không có điểm nhấn. Nhưng nếu trong rất nhiều tác phẩm cũng viết về một đề tài một nội dung nhưng người nghệ sĩ biết thể hiện phong cách nghệ thuật cá nhân thông qua tác phẩm, biết khai thác ở những góc độ mới nhìn nhận sự việc theo quan điểm của mình thì tác phẩm đó sẽ trở nên nổi bật so với các tác phẩm dùng để tải khác.
Trong phong trào thơ mới, trên văn đàn đã xuất hiện rất nhiều nhà thơ tài năng, các tác phẩm đặc sắc, nhưng trong tất cả các thi nhân của giai đoạn này thì Xuân Diệu được đắnh giá là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới bởi trong cùng một thời đại “lộn xộn”. đất nước bị thực dân Pháp xâm lược chúng mang những truyền thống văn hóa của chúng sang Việt Nam khiến đất nước rơi vào tình cảnh “Á, Âu, xã hội Tây, tàu nhố nhăng”. Trước tình cảnh này nhiều nhà thơ không giấu được buồn chán, nhiều người còn muốn thoát ly khỏi hiện thực cuộc sống để đến với chốn bồng lai. Ta biết đến Huy Cận với nỗi buồn “sầu vạn kỉ” trải dài trong tác phẩm nghệ thuật trước cách mạng tháng 8, ta biết đến Lưu Trọng Lư với mùa thu buồn trống vắng, Thế Lữ với một khối căm hờn và mong muốn được thoát khỏi phải sống tù túng, nhưng vẫn quẩn quanh trong bê cắt. Trong khi các nhà thờ khác đang buồn sầu chán nản thì Xuân Diệu đã thể hiện một cách nhìn một quan niệm sống hoàn toàn khác.
Chứng minh nhận định của Leptônxtôi qua bài thơ Vội Vàng
Là người mang trong mình những tri thức của cả văn hóa phương Đông lẫn phương tây Xuân Diệu là nhà thơ có tư tưởng thẩm mỹ kết hợp giữa cổ điển và hiện đại. Đặc biệt, ông có phong cách nghệ thuật hoàn toàn khác với những nhà thơ khác. Độc giả biết đến Xuân Diệu là một nhà thơ có nguồn cảm hứng mới lạ là, một người sôi nổi luôn thể hiện khao khát giao cảm, nồng cháy, cuồng say với cuộc đời. Xuân Diệu luôn ý thức được sự thật, sự của đời người vì vậy luôn có thái độ sống vội, sống tích cực. Ngoài ra điều nổi bật ở Xuân Diệu là người khác ấn tượng, đó là ông là nhà thơ của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ, luôn có cái nhìn “xanh non, biếc rờn” . Trước cuộc đời và chính cái tôi độc đáo ấy đã giải phóng ước lệ phi ngã của thơ ca cổ điển. Cá tính nghệ thuật này đã được Xuân Diệu thể hiện qua rất nhiều tác phẩm của mình, nhưng có lẽ bài thơ “Vội Vàng” là bài thơ thể hiện được phong cách và quan niệm sống của tác giả một cách rõ nét nhất. Bài thơ “Vội vàng” được rút ra từ tập thơ thơ viết năm 1938 và là bài thơ tiêu biểu trong tác phẩm mà Xuân Diệu viết trước cách mạng tháng 8.
“ Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong thơ mới thôi, thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu”. Có lẽ là vì sự táo bạo của ông được thể hiện trong thơ.
“ Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Trong cả một bài thơ theo thể 8 chữ, chỉ có 4 câu thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn, một thể thơ phù hợp cho việc thể hiện những cảm xúc về vần của Xuân Diệu. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần cùng với đó là 2 động từ mạnh “tắt” và “buộc” đã làm nổi bật khao khát của nhà thơ. Đó là khao khát “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ lại màu hoa “cho màu đừng nhạt mất”, để giữ lại sắp thơm “cho hương đừng bay đi”. Đó là khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay thời gian dừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình. Ta cảm nhận được một dòng cảm xúc mạnh mẽ, một khát vọng sống mãnh liệt để được tận hưởng trọn vẹn cuộc đời, tuy nhiên có thể làm mọi thứ dù cho đó là những hành động rất táo bạo gần như không thể thực hiện được, (tắt nắng, buộc gió).
Từ khao khát, mãnh liệt được giao cảm với cuộc đời đó. Xuân Diệu đã kiếm tìm những điều tươi đẹp, đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới, tình tứ của mùa xuân thông qua những cảnh vật thiên nhiên.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của Yến Anh này đây khúc tình si
Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa”
Xuân Diệu luôn nhìn cuộc đời bằng cái nhìn “xanh non, biếc rờn”, phải là một người rất yêu đời yêu thiên nhiên thì nhà thơ mới có thể cảm nhận được từng chuyển biến của sự vật như thế. Xuân Diệu đã phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật đang vào độ thanh tân nhất, diễm lệ nhất. Một bức tranh hội tụ đầy đủ những hương thơm, ánh sáng và màu sắc âm thanh. Đặc biệt cảnh vật hiện lên đều có đôi có cặp: “ Ong Bướm, tuần tháng mật”, “ hoa, đồng nội xanh rì”. Thi sỹ như đang đứng trước bức tranh thiên nhiên mà chỉ trỏ: “Này đây hoa”, “ này đây lá”, “ này đây ánh sáng”. Nhà thơ đã mở lòng mình để cảm nhận và thưởng thức từ mọi giác quan như đang muốn ôm trọn sự sống ngồn ngộn vào lòng mình. Thiên nhiên như một bữa tiệc trần gian đầy những thực đơn quyến rũ còn có cả Ong Bướm lượn tình tứ, ngọt ngào, hoa đua nhau khoe sắc tạo nên “đồng nội xanh gì”, cây cối đâm chồi nảy lộc lên những “cành tơ phơ phất”. Điểm vào bức tranh ấy là một ánh sáng lấp lánh, và tiếng hót của loài chim Yến anh đang ca “ khúc tình si”. Cuộc đời đang tràn đầy nhựa sống và thi nhân đang tận hưởng một cách say đắm. Khi các nhà thơ khác muốn thoát lên trên thoát lên chốn bồng lai thì Xuân Diệu đã bày tỏ rằng:
“ Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa dễ để hút mùa dưới đất”
Một khát khao sống đến mãnh liệt, không muốn rời xa cuộc đời không muốn sống sống mờ nhạt, sống vô nghĩa.
“ Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trên máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”
Chẳng kiếm ở nơi đâu một hồn thơ dạt dào đến thế. Chính cảm hứng và trôi nổi rất “Tây” đó mà Xuân Diệu đã phải phá bỏ những ước lệ phi ngã cổ điển, khi mà trong thơ văn xưa thi nhân lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp
“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Nhưng với Xuân Diệu, con người là chuẩn mực cho cái đẹp. Mùa xuân trong thơ xưa là:
“ Mùa xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
( Nguyễn Du)
Thì xuân diệu chỉ diễn tả hết tất cả vẻ đẹp, sự tươi ngọt đó chỉ qua một hình ảnh so sánh.
“ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Mai ước lệ phi ngã cổ điển đã được giải phóng. Ta cảm nhận được vẻ đẹp của mùa xuân như sự ngọt ngào của “ cặp môi gần” tình tứ.
Chính vì quá yêu cuộc sống, muốn được giao cảm với đời mà nhà thơ mang trong mình tâm trạng vừa sung sướng, vừa tiếc nuối vì sợ thời gian tuổi trẻ sẽ trôi đi mất, tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở trong mùa xuân.
“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Người ta nói Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ quả thật không sai, xuân diệu trọn viết về mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, chọn tuổi trẻ cái tuổi cuồng nhiệt và sôi nổi nhất của cuộc đời và tình yêu là tình cảm có nhiều cung bậc cảm xúc nhất của con người. Thật là tinh tế! nhà thơ quan niệm rằng:
“ Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Ta cảm nhận được sự hoài nghi băn khoăn và không giấu nổi sự lo lắng, vì quá yêu tuổi trẻ nên điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi tuổi già mau tới, bởi khi đã bước qua tuổi trẻ thì con người không thể quay lại ngược với thời gian được nữa đâu. Xuân Diệu đã lấy cả sinh mệnh cả thể của mình để trần tình làm thước đo của thời gian. Mà đó cụ thể là, quãng ngắn nhất của cuộc đời, tuổi trẻ:
“ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nếu bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Chữ xuân được lặp đi lập lại nhiều lần. xuân vừa là “xuân của đất trời” vừa là “xuân của tuổi trẻ”. Nhưng mỗi lần nhắc lại bắt gặp sự ngậm ngùi của thi nhân. Nhà thơ ý thức được sự phản chiếu của đời mình, ý thức được rằng mùa xuân của thiên nhiên thì vẫn hoàn toàn nhưng tuổi trẻ của con người thì chỉ đến một lần duy nhất. Ở cái tuổi trẻ đầy năng lượng đó, thi nhân muốn say đắm, muốn cuồng nhiệt đến mức cảm thấy lượng trời vẫn còn chật. Tác giả sử dụng hệ thống từ ngữ tương phản đối lập, “xuân tuần hoàn”, “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn”, “chẳng còn” làm nổi bật tâm trạng nuối tiếc thời gian của cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, Mùa xuân có thể tuần hoàn, nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần đã qua là mãi mãi. Ta cảm nhận được những tiếng thở dài của thi nhân khi bâng khuâng tiếc nuối nghĩ về một ngày nào đó mình sẽ không còn có thể cảm nhận được bao thanh sắc của cuộc đời được nữa.
Vì suy nghĩ lo lắng rằng đời người là hữu hạn, cái gì rồi cũng sẽ qua đi, nên trong cảm nhận của mình thi nhân thấy vạn vật cũng như đang tiếc nuối chia ly.
“Mùi tháng năm đều sơm bị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hơn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”.
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát, mỗi khoảnh khắc là sự mất mát đối với từng cá thể. Nhà thơ có thể cảm nhận rõ được “mùi năm tháng”, và “vị chia phôi”, dạy lên khắp không gian là than thở, tiễn biệt. Phần đời sinh bệnh của cá thể đang ra đi không thể nào tái tạo được. Tác giả lo lắng tiếc nuối khi nghĩ về phần đời sắp sửa tàn phai của mình nên cũng cảm thấy vạn vật cũng đang than thở theo. Xuân Diệu quả thật ham sống đến cuồng nhiệt, một nét phong cách mà khó có thể tìm được ở những nhà thơ cùng thời khác. Ông yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời, vì vậy ông chỉ muốn nắm giữ tất cả tinh hoa trong cuộc sống là của riêng mình, một sự tham lam rất thú vị và đáng yêu.
Khổ thơ cuối cùng thể hiện rõ nét nhất niềm khát khao, sống mãnh liệt của thi nhân:
“Chẳng bao giờ tôi chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mưa chưa ngã chiều hôm
Ta muốn ôm!
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn biết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng”
Đây là đoạn thơ mang đậm chất phong cách của tác giả, khát khao hưởng thụ cuộc sống đến vội vã, vội vàng. Chỉ với 3 chữ “ Ta muốn ôm” được tách riêng ra thành một câu ta thấu hiểu hết được cái ước mong mãnh liệt của thi sĩ muốn dành hết cho mình cả sự sống mơn mởn”, những gì tươi nhất đẹp nhất ở cõi trần thế. Sau khi đã ôm trọn cả sự sống vào lòng khi ngân còn muốn “siết”, muốn “thâu”, muốn “say”. Chao ôi! dường như thi sĩ muốn mình phải sở hữu tất cả những gì tươi đẹp nhất. Một sự sống của mình không đủ thi nhân còn muốn ôm thêm những sự sống khác vào lòng. Đoạn thơ ngắn nhưng có 4 từ “ ta muốn” lập đi lập lại thể hiện nhịp điệu hối hả, chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít cuống quýt, một khát khao đến ham hở, cuồng nhiệt của nhà thơ, muốn “ say cánh bướm với tình yêu”, muốn “ thâu trong một cái hôn nhiều”, muốn hút hết vào lòng nhựa sống dạt dào để rồi:
“Cho chếnh chóang mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thành sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
Thi sĩ như con ong bay đi hút mật đến no say “ chếng choáng”. Say mê đến mạnh bạo muốn cắn vào xuân hồng cho thích thú cho thỏa mãn. Đây chính là đỉnh điểm khát khao cháy bỏng của nhà thơ, bao nhiêu niềm ham sống mong muốn được say mê với đời đã được nhà thơ thể hiện rõ nhất rất mãnh liệt và kết thúc là một cử chỉ thật đáng yêu: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.
Phong cách của xuân diệu được tạo nên bởi lí tưởng sống, quan niệm sống tích cực của ông, ông luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non biếc rờn”. Ông yêu những vẻ đẹp tươi tắn của thiên nhiên, yêu mùa xuân, yêu cuộc đời. “ Cái quan trọng trọng tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỳ tài năng nào là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình” (Tuốc-ghê -nhép). Quả thật điều gây hứng thú cho người đọc chính là phong cách của nghệ sĩ. Bởi khi thưởng thức một tác phẩm đặc sắc, mang đậm phong cách của tác giả thì người đọc sẽ ấn tượng và cảm tình từ đó sẽ yêu quý và trân trọng những tác phẩm của người nghệ sĩ đó và nghệ sĩ sẽ thành công trong sự nghiệp sáng tác của mình, tạo được dấu ấn cho thời đại.
Nghệ thuật cũng là yếu tố tạo nên sự thành công cho tác phẩm, bên cạnh phong cách và tài năng của thi sĩ. Bài thơ mang đậm chất trữ tình lãng mạn, nhưng không quá bay bổng mà lại gần gũi thân quen, ngôn ngữ trong thơ giao hình ảnh kết hợp giữa chất cổ điển lẫn hiện đại thể thơ 8 chữ nhưng xen lẫn vài dòng thơ ngũ ngôn dòng thơ 3 chữ, 10 chữ tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Nhờ những nét nghệ thuật đặc sắc đó mà vội vàng trở thành bài thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới, được nhiều độc giả yêu quý.
Phong Cách độc đáo mới lạ, chính là bước đệm dẫn đến sự thành công của một nghệ sĩ, nhờ có tài năng và phong cách nghệ thuật đặc sắc Xuân Diệu đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng nhà thơ mới nhất trong phong trào thơ mới và giành được nhiều cảm tình từ độc giả ở mọi thế hệ.
Đề 3
Phân tích quan niệm sống “vội vàng” của Xuân Diệu trong tác phẩm cùng tên.
Xuân Diệu từng được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình”. Đúng vậy, ông viết nhiều thơ và nổi tiếng nhiều với những bài thơ tình. Nhưng có lẽ đến với Vội vàng, bài thơ viết vào năm 1938, in trong tập Thơ Thơ, chúng ta có thể nhận thấy vì sao chẳng cần đến những bài thơ tình thì ông vẫn là một nhà thơ nổi tiếng, một nhà thơ lớn của dân tộc. Bởi tiếng thơ trong Vội vàng là tiếng đời, bộc lộ nhiều rung cảm và những triết lí sâu sắc. Trong đó thi phẩm cũng đã mang đến một quan niệm sống vô cùng ý nghĩa – sống vội vàng.
Nhan đề của bài thơ đã bộc lộ ngay quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu. Đó là một tính từ chỉ sự nhanh chóng, gấp gáp trong một hành động nào đó. Ở đây Xuân Diệu lại đề cao sự vội vàng trong cách sống, thái độ sống. Chẳng lẽ sống vội vàng là phải sống nhanh, sống gấp gáp vậy ư? Không những thế, cả bài thơ tác giả còn giục giã mọi người hãy sống không chờ đợi, sống hết mình, sống căng tràn từng phút, từng giây, sống đến trọn vẹn của “sống” để chống lại quy luật trôi chảy khắc nghiệt của thời gian. Ngay mở đầu bài thơ, ông đã vội vàng qua hai ước muốn đầy táo bạo: tắt nắng, buộc gió. Đây là sự phi lí, hoang đường. Nào ai can thiệp được vào quy luật của tạo hóa, nhưng quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu lại khẳng định điều đó là có lí. Bởi nếu không ngưng đọng thời gian thì mọi thứ màu sắc, hương vị của cuộc sống sẽ theo nắng, theo gió mà phai nhạt, mà bay đi mất. Con người chẳng thể níu giữ, khóa chặt bên mình. Vậy chỉ còn cách phải sống vội vàng thì mới thỏa được lòng khao khát, mới đắm mình mà tận hưởng, mới không bỏ lỡ một chút nào hương sắc của cuộc đời. Quan niệm sống vội vàng thể hiện ngay qua khát vọng ngạo nghễ, khác thường mà yêu đời mãnh liệt như thế.
Thế nhưng nhà thơ cũng chẳng nói suông, ước muốn của ông hoàn toàn có căn cứ, vì cuộc đời này tươi đẹp và vô cùng đáng sống, nên càng phải vội vàng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
…
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Đoạn thơ vang lên với những niềm reo vui, thích thú. Ông như một một “hướng dẫn viên” đưa người đọc đi khám thính vẻ đẹp của trần thế này. Thi sĩ sung sướng lắm vì đắm chìm trong cảnh sắc tươi non, viên mãn của mùa xuân: ong bướm tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh khúc tình si, ánh sáng chớp hàng mi, mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa, tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Cái hay và ý nghĩa của nhà thơ là để mọi người thưởng thức vẻ đẹp ấy không phải ở chốn bồng lai tiên cảnh, mà ở ngay xung quanh mình. Bởi vậy, Xuân Diệu quan niệm sống vội vàng là yêu thiên nhiên, cuộc sống, nhưng là những gì gần gũi nhất, thân thuộc nhất và trong những khoảnh khắc căng tràn sức sống, tràn ngập xuân tình nhất. Nhưng ông chợt nhận ra, dù là ngay quanh mình đi nữa thì chúng chẳng ở mãi bên mình, nhà thơ dẫu yêu, dẫu ham đến đâu thì rồi nó cũng vụt mất. Bởi vậy, lời thơ say mê, tha thiết nhưng bỗng chùng xuống, vì phải vội vàng một nửa. Vừa tận hưởng vừa vội vàng chính là những gì Xuân Diệu quan niệm. Đó cũng chính là cuộc chạy đua với thời gian để hưởng trọn hương sắc cuộc đời.
Cách sống của Xuân Diệu đúng là không chờ đợi. Ông vội vàng đến mức mà ở ngay mùa xuân ông đã thấy nhớ nó, chứ không chờ tới mùa hạ mới nhớ mùa xuân. Yêu thương, nhớ nhung tất thảy những gì đang tồn tại trở thành phương châm sống của thi sĩ. Với ông điều này có căn cứ.
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
…
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!
Xuân Diệu chẳng những quá ám ảnh về thời gian mà ông còn nhạy cảm đến lạ lùng về sự trôi chảy của nó. Hầu hết chúng ta cho rằng, mọi thứ đang đến là đến, chứ ít suy nghĩ rằng nó đang dần trôi qua. Nhưng Xuân Diệu thì khác, ông cảm nhận thấy rõ từng bước đi của thời gian. Nên xuân tới là xuân đang qua, non tức là sẽ già, thậm chí còn đến mức sẽ hết… Tại sao nhà thơ lại quá nhạy cảm như vậy? Sự nghiệt ngã ấy bấy lâu nay ai cũng biết, nhưng nhận ra nó để biết rằng nó đang lấy hết đi những gì của cuộc sống này chỉ có Xuân Diệu. Đoạn thơ mang giọng điệu tranh biện rất say sưa. Ông đang minh chứng rằng cuộc sống này đẹp nhưng không bao giờ ở lại, mỗi phút giây trôi qua là sẽ mất đi. Những thứ nhìn thấy tưởng chừng như sẽ tồn tại lâu, nhưng thực chất đang mất mát, hao mòn dần. Cho nên nếu không sống vội vàng thì chỉ còn lại là những gì tiếc nuối, xót xa. Nhà thơ đưa cả thêm những hình ảnh nhân hóa về sự mất mát, chia lìa bởi thời gian: tháng năm rớm vị chia phôi, núi sông than thầm tiễn biệt, gió xinh hơn dỗi vì phải bay đi, chim đứt tiếng reo thi vì độ phai tàn sắp sửa… để minh chứng cho điều ấy. Đó mới là vạn vật, trời đất, còn nếu là con người thì hỡi ôi, chắc hẳn phải nhiều ngậm ngùi, chua chát lắm. Nên nhà thơ muốn chúng ta hãy sống vội vàng đi để chạy đua với thời gian, để về sau chúng ta không còn phải thốt lên những lời đầy tiếc nuối: Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa! Và rồi có phải chứng kiến những gì chia lìa, đứt gãy ấy cũng không còn là điều tiếc nuối, xót xa. Quan niệm sống vội vàng trong cái nhìn về thời gian như thế của Xuân Diệu chính là thông điệp sống phải biết trân trọng từng phút, từng giây để không bao giờ phải hối tiếc.
Không những chỉ ra cuộc sống này tươi đẹp rất đáng sống vội vàng, thời gian trôi chảy rất nghiệt ngã, vô tình nên càng phải sống vội vàng, nhà thơ còn giục giã và mách chúng ta cách để sống vội vàng.
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
…
– Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Lời giục giã đầy hối hả, khẩn thiết. Trong bài thơ có tên Giục giã ông cũng viết:
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ
Em em ơi, tình non sắp già rồi.
Chẳng phải đây là lần đầu tiên Xuân Diệu khiến người ta cuống quýt thế, mà sống vội vàng là phải vậy. Hãy sống nhanh lên, gấp gáp lên khi mùa chưa ngả chiều hôm, khi cuộc đời chưa vào lúc bóng xế, lúc mình còn tuổi trẻ. Bởi vậy đừng ngại ngần, hãy ôm, hãy riết, hãy say, hãy thâu, hãy cắn để những khoảnh khắc tuyệt diệu của sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều, non nước, cỏ cây và xuân hồng được ta hưởng trọn. Thậm chí phải được ngây ngất, chếnh choáng, đã đầy, no nê mới thực sự vội vàng. Bao nhiêu bút lực của sự nhiệt huyết, sôi trào, Xuân Diệu dồn hết vào đoạn thơ cuối. Lời thơ căng tràn cảm xúc, khiến ai đọc cũng như mở lòng ra, cũng chẳng thể ngồi yên mà sống một cách vô nghĩa. Ý nghĩa nhân sinh cao đẹp trong cách sống vội vàng là sống đúng thời điểm. Khi còn tuổi trẻ, khi trong những khoảnh khắc đẹp đẽ của cuộc sống, đó là lúc ta nên sống hết mình. Không phải cứ nhanh, cứ gấp là vội vàng được mà phải sống sao cho đáng trong từng khoảnh khắc mình bỏ ra.
Xuân Diệu viết bài thơ này khi ông mới 22 tuổi nhưng những lời tranh biện và giàu tính triết lý trong bài thơ không hề non nớt. Để có được một quan niệm sống vội vàng giàu ý nghĩa tích cực như thế phải được bắt nguồn từ một thái độ sống nghiêm túc, một tình yêu với cuộc sống mãnh liệt. Bài thơ Vội vàng và quan niệm sống của nhà thơ thực sự đã trở thành một bài học giá trị với nhiều thế hệ trẻ sau này.