ĐỀ THI THỬ THPTQG                                             ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019
                                                                                    CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 10

                                                                                                 Môn thi: NGỮ VĂN

                                                                             Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề


Họ, tên thí sinh: .......................................................................

Số báo danh: ............................................................................


I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:

…  Mỗi năm Việt Nam có hàng trăm nghìn sinh viên, học sinh rời ghế nhà trường hoặc lên đường xuất ngoại du học. Họ sẽ là những doanh nhân và chuyên gia thuộc mọi lĩnh vực, nối tiếp thế hệ đàn anh tiếp tục gánh vác trách nhiệm phát triển đất nước. Với bản chất thông minh, hiếu học sẵn có, việc thu thập kiến thức kĩ thuật thật sự không khó đối với dân Việt. Giáo dục là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn bao gồm giáo dục nhân cách làm người, làm cho con người chúng ta nhận thức được cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, cái chính, cái tà để từ đó chúng ta sống một cuộc sống thật sự có ý nghĩa, hợp với đạo lí làm người, góp phần làm cho cuộc sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Sinh viên Việt Nam liên tục đạt được những giải thưởng quốc tế và người Việt được đánh giá là rất thông minh và nhẫn nại. Điều quan trọng là chúng ta cần đầu tư nhiều hơn vào lớp trẻ để giúp họ có được vốn văn hóa sâu dày, biết yêu quý và hãnh diện về văn chương, nghệ thuật và những giá trị cao đẹp của Việt Nam. Có như vậy họ mới cảm thấy gắn bó và quay về với quê hương đất nước. Những chương trình “về nguồn” và “mùa hè xanh” đều là những cố gắng đúng hướng và chắc chắn sẽ mang lại kết quả lâu dài.

        Trước làn sóng văn hóa ngoại lai đầy sôi động và cám dỗ của thời hội nhập, tôi nghĩ chúng ta cần chú tâm nhiều hơn đến giới trẻ nếu muốn tránh những bước đi sai lầm của các nước bạn. Muốn thu ngắn cách biệt, muốn tạo dựng được một nền móng kinh tế vững chắc để có thể bắt kịp xứ người, vấn đề tăng cường chất lượng giáo dục đào tạo văn hóa cho lớp trẻ quả là một thách thức của Việt Nam hôm nay.

                                                      (Theo http://news.hoasen.edu.vn/tin-chuyen-de/dau-tu-cho-gioi-tre)

 Câu 1: Đoạn trích trên thuộc phong cách ngôn ngữ nào?

Câu 2: Những phương thức biểu đạt nào được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 3: Xác định nội dung chính của đoạn trích. Hãy chỉ ra các phương thức liên kết câu trong đoạn trích trên? 
Câu 4: Tưởng tượng anh (chị) là tác giả của bài viết trên, hãy viết tiếp một đoạn văn ngắn để bàn về một giải pháp cụ thể nhằm tăng cường chất lượng giáo dục văn hóa cho giới trẻ hiện nay.

II.    LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới”.

Câu 2 (5,0 điểm):

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ trên trong đoạn trích Việt Bắc – Tố Hữu (SGK Ngữ văn 12, Tập một,NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 110). Từ đó liên hệ với cái tôi của Huy Cận trong khổ cuối bài thơ Tràng giang để thấy sự khác biệt giữa cái tôi trong Thơ mới và thơ ca cách mạng.

-------------------- HẾT --------------------


                                                                                       HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1: - Phong cách ngôn ngữ báo chí.

Câu 2: - A – Sai; B – Sai; C – Đúng.

Câu 3:

-    Xác định nội dung của đoạn trích: Khẳng định sự cần thiết của việc đầu tư giáo dục văn hóa cho giới trẻ.

-    Các phương thức liên kết câu trong đoạn trích trên: - A – Sai; B – Đúng; C – Sai; D – Sai.

Câu 4:

- Yêu cầu về hình thức: Thí sinh viết một đoạn văn hoàn chỉnh, đảm bảo dung lượng theo yêu cầu.

– Yêu cầu về nội dung:

+    Đoạn văn cần có sự liên kết với nội dung đoạn trích đã cho.

+    Thí sinh có thể đưa ra nhiều giải pháp khác nhau nhưng cần hợp lí và có sức thuyết phục: đưa nội dung giáo dục văn hoá nhiều hơn vào nhà trường, tổ chức các hoạt động ngoại khoá có mục đích giáo dục văn hoá cho giới trẻ, tăng cường giáo dục văn hoá trên các phương tiện thông tin đại chúng…

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

Câu 1: (2,0 điểm)

A. Về kĩ năng

- Viết về một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

-    Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạc, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

B. Về kiến thức

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:

1. Giải thích

-    “Giáo dục” có thể hiểu như là một công cụ mà các lớp người đi trước dùng để truyền đạt và gửi gắm những mong muốn và kì vọng vào những tầng lớp trẻ sau này là tương lai là sức mạnh của một quốc gia.

Giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi không có nó thì có lẽ xã hội loài người không thể nào có được sự phát triển vượt bậc như bây giờ.

2. Chứng minh và bàn luận

-    Giáo dục trước hết góp phần hình thành nhân cách của con người làm cho chúng ta có thể nhận thức được thiện, ác, đúng, sai, biết sống có đạo đức và hành xử đúng đắn theo những chuẩn mực đạo lí của xã hội.
-    Cho dù là ở đất nước nào đi nữa nền giáo dục luôn hướng con người sống đẹp và nhận thức được những gì bản thân cần phải làm và nghĩa vụ của mỗi người đối với đất nước mình sinh ra.
-    Giáo dục không chỉ gói gọn trong khuôn khổ nhà trường mà còn có xã hội chính là “trường đời” sẽ mang đến cho mỗi con người những bài học cuộc sống vô cùng quý giá.

-    Giáo dục bên cạnh tác động thay đổi được nhận thức, thì việc mang đến tri thức và sự hiểu biết cho con người chính là một vai trò to lớn có thể thay đổi được bộ mặt của xã hội.
-    Dù bất kì thời đại nào chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò to lớn của giáo dục, nó thật sự là “vũ khí mạnh nhất mà con người có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới”.
-    Phê phán những hành động sai trái, định hướng không đúng về vai trò của giáo dục.

→ Như vậy mục đích quan trọng của nền giáo dục chính là hướng chúng ta học làm người, sống có ích, biết cống hiến cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.

3. Bài học nhận thức và hành động

-    Câu nói này chính là chân lí, là kim chỉ nam cho mọi quốc gia đang trên đà xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị…
-    Phải biết lấy giáo dục làm nòng cốt để đào tạo nên những con người ưu tú biết cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
-    Đối với mỗi học sinh, sinh viên nhận thức được ý nghĩa của câu nói này phải càng ra sức phấn đấu không ngừng học tập nghiên cứu trở thành những con người đủ đức đủ tài góp phần đưa đất nước phát triển vươn xa ra tầm thế giới.

Câu 2: (5,0điểm)

1. Mở bài

       Là người, ai cũng có một miền đời để thương nhớ. Có những mảnh đất tuy không phải nơi chôn nhau cắt rốn nhưng vẫn không bao giờ phai mờ trong tâm khảm. Bởi đó là máu thịt, là nơi ghi lại kỉ niệm đẹp nhất của một đời người như Chế Lan Viên đã từng ghi lại cảm xúc chân thành từ lòng mình về mảnh đất Tây Bắc trong Tiếng hát con tàu:

                                                                       Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

                                                                       Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn.

         Việt Bắc – quê hương của kháng chiến, cách mạng trong những ngày đầu tiên của nền Dân chủ Cộng hòa đã trở thành biểu tượng của tấm lòng gắn bó thủy chung với cách mạng, dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại mối tình sắt son đậm đà “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” trong bài thơ Việt Bắc, bằng tất cả cảm xúc nồng nàn của một hồn thơ đằm thắm, thủy chung.

        Qua bao năm tháng, biến động của lịch sử, tiếng nói thiết tha ấy vẫn rung cảm lòng người, Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong lòng người hôm nay:
                                                                                      Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

…                                                                                   Mình đi, mình có nhớ mình

                                                                            Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
             Tiếng lòng ân tình ngày ấy phải chăng đã thấm sâu vào mạch ân tình chung thủy của thi ca dân tộc, cho nên khoảng cách thời gian không làm nhạt nhòa ấn tượng về một vùng rừng núi chiến khu xưa hùng vĩ nên thơ?

2. Thân bài

2.1. Khái quát chung

         Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, lá cờ đầu tiên của nền thơ ca cách mạng Việt nam. Mỗi thời kì lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa…

         Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại.

Trên đường ta về lại thủ đô

Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ.

                                                                                                                  (Ta đi tới, Tố Hữu)

         Sau hơn ba ngàn ngày khói lửa, Thủ đô Hà Nội và miền Bắc hoàn toàn giải phóng (10 - 1954). Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ra đời trong bối cảnh lịch sử hào hùng và vẻ vang ấy. Mang tầm vóc một trường ca, với 150 câu thơ lục bát, bài thơ ca ngợi mối tình Việt Bắc, những kỉ niệm sâu sắc cảm động của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc với bao ân tình thủy chung.

         Phần mở đầu bài Việt Bắc gồm hai mươi câu thơ, là lời đưa tiễn của kẻ ở lại đối với người về, của “ta” đối với “mình”. Đoạn thơ tám câu trên (từ câu chín đến câu mười sáu) nằm trong phần mở đầu bài thơ Việt Bắc.

2.2. Phân tích

        Đoạn thơ đầy ắp kỉ niệm về Việt Bắc: “Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa”, mà “ta” hỏi “mình đi, có nhớ”. Hai chủ thể trữ tình: “Ta” là người ở lại, là đồng bào Việt Bắc, là cô gái Việt Bắc, đang hát lời tiếng đưa “thiết tha bên cồn”. “Mình” cũng là một chủ thể trữ tình phiếm chỉ, ước lệ, cùng với “ta” tạo nên một cặp nhân vật trong giao duyên, đưa tiễn, ở đây là người cán bộ kháng chiến về xuôi, trong đó có nhà thơ. Mỗi cặp lục bát nhắc lại một kỉ niệm về Việt Bắc. Những chi tiết nghệ thuật vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng giàu sắc thái biểu cảm.

           Các câu lục trong đoạn thơ là những câu hỏi tu từ nối tiếp xuất hiện, như nhắc nhở, như gợi nhớ gợi thương: “Mình đi, có nhớ những ngày… Mình về, có nhớ chiến khu… Mình về, rừng núi nhớ ai… Mình đi, có nhớ những nhà”… Điệp ngữ “có nhớ” làm cho cảm xúc thơ lắng đọng, giọng thơ trở nên tha thiết bồn chồn, ngọt ngào sâu lắng. Hai tiếng “mình đi” và “mình về” được luân phiên giao hoán, chuyển đổi một cách uyển chuyển, sinh động, có giá trị gợi lên cảnh chia tay thêm lưu luyến và bâng khuâng, hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc một đi xa dần, nhưng trong lòng vẫn mang theo tiếng hát và nỗi nhớ.
          Các câu bát trong đoạn thơ đều được tạo thành hai vế tiểu đối 4/4 cân xứng, hài hòa. Những kỉ niệm sâu sắc chứa chan ân tình đối với kẻ ở, người về được nhắc lại gợi lên bao nỗi niềm: “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”…

         Mình đi rồi, mình có còn nhớ: “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”? Cảnh mưa trắng nguồn, lũ ngập đầy suối, mây mù bao phủ núi rừng… là sự khắc nghiệt của thời tiết, của thiên nhiên Việt Bắc. Mưa, lũ, mây mù còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những gian khổ, thử thách mà quân và dân ta phải trải qua trong những năm dài máu lửa. Mình về rồi, mình có nhớ: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”? Tố Hữu đã lấy cái cụ thể: “miếng cơm chấm muối” để nói lên cái trừu tượng: gian khổ thiếu thốn. “Mối thù nặng vai” cũng là một hình ảnh cụ thể biểu cảm. Mối thù đối với quân xâm lược đè nặng đôi vai, luôn luôn nhắc nhở nuôi dưỡng ý chí chiến đấu để giải phóng đất nước, giành lại tự do, hòa bình cho nhân dân. Không bao giờ có thể quên “mối thù nặng vai” ấy.

          Hỏi núi rừng “nhớ ai”, cũng là hỏi “mình về, có nhớ”. Nghệ thuật nhân hóa và đại từ phiếm chỉ “ai” gợi lên bao man mác, bâng khuâng:

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

          “Trám bùi” ,“măng mai” là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để nuôi bộ đội đánh giặc trong những tháng ngày gian khổ. Hương vị núi rừng ấy tượng trưng cho mối tình Việt Bắc sâu nặng ân nghĩa. Các từ ngữ: “để rụng”, “để già” thoáng chút bùi ngùi, cô đơn, thương nhớ.

         Và ở vào giờ phút bịn rịn này, khi về nơi phồn hoa đô hội, liệu “mình” có còn nhớ tấm lòng của người dân Việt Bắc?

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.

         Những ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc, nghèo khổ trong dáng vẻ “hắt hiu lau xám” gợi nỗi buồn hiu quạnh. Bên trong “những ngôi nhà” ấy lại chứa đựng tấm lòng son sắt thủy chung, nghĩa tình. Hình ảnh thơ được đặt trong thế tương phản kết hợp với nghệ thuật hoán dụ, nhà thơ đã tô đậm tấm lòng của nhân dân Việt Bắc – những con người đã góp phần làm nên Điện Biên “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”.

        Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Nếu Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, thì các cán bộ kháng chiến về xuôi có còn nhớ những kỉ niệm của một thời kháng chiến:

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thưở còn Việt Minh

         Câu thơ như một sự nhắc nhở người đi hãy nhớ về núi rừng Việt Bắc nơi căn cứ địa kháng chiến cùng với hai sự kiện lịch sử: “Khi kháng Nhật thưở còn Việt Minh”. Năm 1940 khi Nhật vào xâm lược nước ta. Núi non Việt Bắc bắt đầu vào cuộc chiến đấu. Năm 1941 Việt Nam độc lập Đồng minh (còn gọi là Việt Minh) được thành lập. Đây là phong trào lớn mạnh đã tạo thành một mặt trận vũ trang góp phần làm nên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này.

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?

          Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm. Câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không? Thay “ta” bằng “mình” để chỉ người Việt Bắc là Tố Hữu muốn nhấn mạnh: “ta” và “mình” đã hòa vào nhau. Dù kẻ ở, hay người đi đều cùng một tâm trạng buồn nhớ như nhau. Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo nghĩa: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình – nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lí của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính chính trị mà vẫn thấm đượm tình cảm, ân tình như khúc ca tình yêu giữa người ở lại và kẻ ra đi.

          Đoạn thơ được khép lạ bằng hình ảnh: “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22 – 12 – 1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (sau này là Quân đội Nhân dân Việt Nam); mái đình Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của cách mạng. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng chính là cái nôi của cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng cách mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa hay không hay là đã thay lòng đổi dạ. Khơi dậy một quá vãng đầy kỉ niệm: cay đắng, ngọt bùi, gian nan, vất vả, người ở lại muốn khẳng định với người ra đi một điều: Nét đẹp cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo khổ mà chân tình rộng mở, sắt son thủy chung với cách mạng, người cũng vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Và cũng chỉ với mười hai câu thơ Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa cách mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp với phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu. Thêm vào đó là một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ “nhớ” gợi cho ta cảm nhận được những cung bậc, những sắc thái khác nhau trong tâm trạng của người ở lại.
2.3 Liên hệ

         Tố Hữu đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của phong trào Thơ mới 1932 – 1945 về phương diện hình thức biểu hiện là chủ yếu. Từ ấy mới và hiện đại cả về nội dung và hình thức. Nhưng từ tập thơ Việt Bắc – cái tôi cách mạng của Tố Hữu đã có khoảng cách khác biệt rõ rệt với cái tôi của thơ ca lãng mạn.

         Nếu như ở cái tôi của phong trào Thơ mơi đa phần thể hiện ở cái tôi đậm tính chất khẳng định cá nhân “Ta là một, là riêng, là thứ nhất” như trong thơ Xuân Diệu, thì cái tôi của Tố Hữu lại là cái tôi mang chất cộng đồng, là cái tôi cá nhân cá thể hòa hợp với cái ta chung nhân danh cộng đồng và hướng về giai cấp cần lao. Cái tôi của Tố Hữu là cái tôi biểu hiện của một thanh niên giác ngộ cách mạng, say mê lí tưởng và tinh thần đấu tranh kiên cường cho lí tưởng cộng sản. Cái tôi mang lí tưởng của cái ta chung của cộng đồng thay mặt giai cấp vô sản nói lên tiếng nói chung mang âm hưởng rất riêng. Và nếu như “cái tôi” Thơ mới yêu vẻ đẹp cuộc sống trần gian thì ở Tố Hữu cái tôi cũng thể hiện ở tình yêu cuộc sống và con người.

         Cái tôi trong phong trào Thơ mới thể hiện là cái tôi mang nỗi u sầu nhân thế, nỗi đau riêng của đời người, của kiếp thi nhân mà được xem như người mặc khách chốn trần gian đang cảm thấy lạc lõng, bơ vơ giữa dòng đời và trong chính bản thân mình. Họ tìm đến cõi mộng, cõi hư vô, hoặc thoát li lên cõi tiên, cõi hư không như lời bình của Hoài Thanh trong Một thời đại trong thi ca: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ra đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lưu, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta say đắm cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận…”. Cái tôi trong phong trào Thơ mới là cái tôi u sầu, bế tắc không tìm được hướng đi.

           Ta còn bắt gặp một hồn thơ với sự giao hòa của vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thể hiện trong Tràng giang”. Huy Cận đã thể hiện một cái tôi trữ tình trực tiếp:
                                                                         Lòng quê dợn dợn vời con nước

                                                                         Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

         “Dợn dợn: là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”: “Không khói hoàng hôn cũng nhà”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước. Câu thơ cũng gợi cho ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng hạc lâu: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà. Còn nhà thơ mới của chúng ta tuy không thấy khói sóng cũng nhớ nhà. Nên nỗi buồn nhớ quê hương của nhà thơ cũng da diết hơn, cháy bỏng hơn. Và có lẽ chỉ đến Thơ mới thì nỗi buồn nhớ quê mới có được cái cảm giác “dợn dợn” như thế và theo Xuân Diệu: “Tuy không khói hoàng hôn nhưng chính là bằng cách ấy tác giả đã đưa thêm khói hoàng hôn của Thôi Hiệu vào bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ nhà của người lữ thứ trước cảnh tràng giang”.

          Ta chú ý ở câu thơ cuối cùng, bởi vì chính Huy Cận đã từng nói: “Khi viết câu thơ ấy, tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời Đường”. Tuy nhiên ở đây, ta không nói rằng ai buồn hơn ai mà là thể hiện nỗi buồn của thế hệ khi đứng trước tình cảnh quê nhà và sự bộc lộ trực tiếp “cái tôi” của Huy Cận, không cần trên sông có khói sóng nỗi buồn này vẫn thường trực, vẫn cuồn cuộn dâng lên như một con sóng ngầm của tràng giang ngày đêm vỗ vào tâm thức của tác giả.

3.    Kết bài

          Tóm lại, đoạn thơ trên không chỉ là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Mà nó còn tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian. Đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, Tố Hữu đã ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thủy chung son sắt của Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến. Như vậy, ta thấy được ở Tố Hữu “cái tôi” riêng đã kết hợp với “cái ta” chung, hài hòa giữa yếu tố “trữ tình” và yếu tố “chính trị” để hướng về giai cấp cần lao, giai cấp vô sản để làm nên tình quân dân gắn bó, ân nghĩa, thủy chung.

 

Bài viết gợi ý: