CHÙA TAM HUYỀN
Chùa Tam Huyền thuộc quần thể di tích chùa Láng (thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh), một quần thể ghi đậm dấu ấn Phật giáo triều Lí (1010 – 1225) dưới thời đại Vạn Hạnh – thời kì hưng thịnh của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Chùa Tam Huyền có tên chữ là SÙNG PHÚC TỰ, nằm bên bờ phải dòng sông Tô Lịch ở địa phận thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục cựu (tục gọi là Mọc cựu trong cụm 8 làng Mọc của vùng Mọc lừng danh xa xưa), tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, giáp với khu công nghiệp Thượng Đình (quận Đống Đa, thành phố Hà Nội).
Chùa Tam Huyền có lăng Thánh Phụ Từ Vinh, thân phụ của Thiền sư Từ Đạo Hạnh là vị Thiền sư nổi tiếng thời Lí Nhân Tông (1072 – 1127), thuộc thế hệ thứ 12 dòng Thiền Tì Ni Đa Lưu chi tại Việt Nam. Thánh phụ Từ Vinh giữ chức Tăng quan đô sát có điều xích mích với Diên Thành Hầu, bị Diên Thành Hầu nhờ sư Đại Điên) hiện nay thờ tại chùa Duệ Tú – Ao dài, xóm Duệ, thôn Tiền, xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) dùng pháp thuật đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Tương truyền xác gồm 3 khúc: khúc đầu trôi dạt vào địa phận xã Nhân Mục cựu (Mọc cựu), được vớt lên chôn cạnh Sùng Phúc Tự, gọi là Lăng Thánh Phụ. Hai chân trôi dạt vào thôn Kim Giang (tục gọi là Lư Cầu) thuộc xã Kim Lũ (Kẻ Lũ) là xã bên dưới cùng tổng, cùng huyện với Mọc cựu. Còn thân mình thì trôi dạt mãi tới địa phận thôn Pháp Vân (tục gọi là kẻ Vân nổi tiếng về cua ốc), xã Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, nên trong dân gian hiện vẫn lưu truyền câu ca dao:”Mọc cựu thờ đầu; Lư Cầu thờ chân, Pháp Vân thờ khúc giữa”, ý nói về ba làng dọc bờ sông Tô Lịch thờ Đức thánh Phụ Từ Vinh.
Năm Bính Ngọ (1726), niên hiệu Bảo Thái thứ 7 đời Lê Dụ Tông (1705 – 1729), Lân Giác thượng sĩ Trịnh Hợp (1690 – 1733), em ruột của An Đô Vương Trinh Cương (1696 – 1729), Sơ Tổ dòng Thiền Lâm Tế Đàng Ngoài (Tế Trúc song hành), dựng chùa Liên Tông trên khu đất dinh thự của mình mà lập Tổ dinh của dòng Thiền. Ngài là bổn sư của hai vị đệ tử Trí Cự và Trạm Công. Sư Trí Cự được truyền kế đăng tại chùa Liên Tông với pháp hiệu Tính Tuyền. Hai vị đều thuộc thế hệ thứ hai của dòng Thiền Tâm Tế Đàng Ngoài.
Sư Trạm Công Tính Tuyền đã xây dựng tam quan chùa Sùng Phúc nhìn xuống dòng sông Tô Lịch lững lờ trôi trước cửa chùa, cổng giữa mang dòng chữ Tam Huyền môn và từ đó ngôi chùa Sùng Phúc được gọi là chùa Tam Huyền.
Năm Bính Thìn (1736), niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 đời Lê Ý Tông (1735 – 1740), sư Trạm Công Tính Tuyền vâng sắc chỉ nhà vua sang Trung Quốc thỉnh kinh. Nhà sư đã đến núi Đỉnh Hổ, bái yết Hòa Thượng Kim Quang, thỉnh được nhiều pho Kinh Phật. Trước khi lên đường về nước, sư Trạm Công Tính Tuyền rất mực thông tuệ và có tài ứng đối, vua Càn Long đã sắc phong sư Trạm Công Tính Tuyền là Lưỡng quốc Hòa thượng.
QUẢNG TRƯỜNG BA ĐÌNH
Hà Nội là trái tim của cả nước thì Quảng trường Ba Đình là trái tim của Hà Nội. Vì tại đây đã diễn ra những sự kiện trọng đại của Thủ đô và cũng là của cả nước ta.
Nguyên nơi này vốn là khu vực Cửa Tây của thành Hà Nội cổ. Đầu thời Pháp thuộc, chúng phá thành làm một vườn hoa nhỏ. Nơi đây gọi là Điểm tròn Puginier. Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. (Chữ Ba Đình là để gọi nhớ dải đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hóa, nơi đã nổ ra cuộc khỏi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 – 1886 đến tháng 1 – 1887 của Đinh Công Tráng). Ngày 2 – 9 – 1945, nửa triệu đồng bào Hà Nội và phụ cận đã cuồn cuộn đổ về Quảng Trường, bốn mặt hình thang phủ vải đỏ, ở giữa có hình nổi ngôi sao vàng năm cánh. Trên thành lễ đài phủ vải vàng.
Đúng 14 giờ, các vị trong Chính phủ lâm thời đã có mặt trên lễ đại. Sau lễ chào cờ, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Nửa triệu đồng bào hân hoan, xúc động, im lặng đón nghe tiếng nói của lãnh tụ. Bác đọc xong, chính phủ lâm thời tuyên thề. Sau đó, Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp trình bày tình hình trong nước và chính sách của Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu báo cáo công việc tước ấn, kiếm tại Huế, trình với đồng bào quả án và cây kiếm tượng trưng cho uy quyền của triều Nguyễn mà Bảo Đại đã nộp cho Cách mạng. Đại diện Tổng bộ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng nói về cuộc đấu tranh của nhân dân và kêu gọi đoàn kết, đẩy mạnh quá trình Cách mạng. Sau cùng, mít tinh biến thành biểu tình tuần hành trên các đường phố. Ngày 9 – 9 – 1969, sáu ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cũng tại Quảng trường này, lễ truy điệu Người đã được cử hành trọng thể. Mười vạn đồng bào Thủ đô và các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới đây dự lễ vĩnh biệt Người.
Nay mặt chính của Quảng trường – Mặt Tây – là Lăng Bác. Trước Lăng là Quảng trường với 320 mét chiều dài, 100 mét chiều rộng, đủ chỗ cho 20 vạn người dự mít tinh. Quảng trường gồm 168 ô cỏ, bốn mùa xanh tươi, ở giữa là cột cờ cao 30 mét. Lá quốc kì với năm cánh sao vàng như năm cánh hoa xỏe ra trùm lên năm cửa ô Hà Nội. Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian thiêng liên của Thủ đô Hà Nội.