Những đứa con trong gia đình ( Nguyễn Thi )

2. Chuyên đề

 

Đề 1: Vẻ đẹp riêng của hai nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà-nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành và nhân vật Việt trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.

 

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật:

- Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là 2 tác phẩm xuất sắc, phản ánh cuộc chiến đấu của con người Việt Nam trong kháng chiến.

Tnú và Việt là hai nhân vật chính của hai tác phẩm. Qua hai nhân vật, tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đã khắc họa được vẻ đẹp con người Việt Nam trong thời chống Mĩ. Ở mỗi nhân vật đều có những vẻ đẹp riêng, hấp dẫn người đọc.

2. Phân tích vẻ đẹp riêng ở mỗi nhân vật:

a. Nhân vật Tnú:

- Con người có cá tính, bất khuất, kiên trung, đã vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược.

+ Từ nhỏ, Tnú là một cậu bé gan góc, dũng cảm, trung thực, được giác ngộ cách mạng ;

+ Khi thoát ngục Kontum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, được tôi luyện qua nhiều thử thách, trở thành một chiến sĩ kiên cường, bất khuất, trung thành với cách mạng.

+ Vẻ đẹp của nhân vật bộc lộ sáng chói qua đoạn cao trào đầy kịch tính của truyện khi vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay bằng chính nhựa xà nu của quê hương, khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả buôn làng.

- Gắn bó với gia đình, bản làng: yêu thiết tha bản làng, gắn bó thân thiết với cảnh và người ở quê hương mình, hết lòng yêu thương vợ con.

- Nghệ thuật thể hiện: không gian sử thi, cuộc đời sử thi, ngôn ngữ chọn lọc, tạo không khí.

b. Nhân vật Việt:

- Mang vẻ trẻ con hồn nhiên, ngây thơ, vô tư: để mặc chị lo hết mọi việc trong nhà, không sợ kẻ thù, không sợ cái chết nhưng rất sợ ma, lúc nào bên người cũng có cái súng chun,...

- Tính cách bộc trực, dũng cảm, kiên cường, gắn bó sâu nặng với gia đình, đồng đội, khát khao cầm súng trả thù nhà, đền nợ nước.

+ Khi còn nhỏ dám xông thẳng vào đá thằng giặc vừa giết hại cha mình.

+ Khi chưa đủ tuổi tòng quân, Việt nằng nặc đòi đi cầm súng trả thù cho ba má.

+ Khi xung trân, Việt chiến đấu rất dũng cảm.

+ Khi bị thương, lạc đồng đội, Việt vẫn trong tư thế chờ tiêu diệt giặc.

- Nghệ thuật thể hiện: Nhân vật được đặt vào một tình huống thử thách đặc biệt; lối trần thuật nửa trực tiếp, ngôn ngữ đậm sắc thái Nam bộ.

3. Bình luận:

- Họ đều là những điển hình của con người Việt Nam kháng chiến mang thân phận bi kịch, chịu nhiều đau thương, mất mát, giàu tình cảm, căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước, quê hương.

- Tuy nhiên, ở mỗi nhân vật lại có những vẻ đẹp riêng:

+ Tnú là nhân vật được kết tinh từ vẻ đẹp tiêu biểu nhất của con người mang đậm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên với hình ảnh, vóc dáng vạm vỡ chứa trong đó cái mênh mang, trong sạch, hoang dại của núi rừng. Qua hình tượng Tnú, Nguyễn Trung Thành 

 

Đề 2: Suy nghĩ của em về ý kiến: nhân vật Việt và Chiến trong “Những đứa con trong gia đình” vừa có những nét giống nhau lại vừa có những nét khác nhau.

 

1. Giới thiệu chung:

- Nguyễn Thi được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ bởi ông đã gắn bó sâu nặng và sự am hiểu sâu sắc về những con người nơi đây.

- "Những đứa con trong gia đình" thuộc số những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Thi. Thành công nổi trội của truyện là nghệ thuật xây dựng các tính cách nhân vật với cá tính đậm nét, đặc biệt là hai nhân vật: Việt và Chiến.

2. Cụ thể:

a. Nét tính cách chung của hai chị em:

- Chung một hoàn cảnh: con một gia đình nông dân nghèo chịu nhiều mất mát đau thương nhưng giàu truyền thống yêu nước và cách mạng nên họ giống nhau về bản chất.

- Chung tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em: thương ba má, chị Hai và em. Kính trọng và nghe lời chú Năm, cùng mối thù với bọn xâm lược, hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba và má, và có cùng nguyện vọng được cầm súng đánh giặc nên giành nhau đi tòng quân.

- Cả hai đều là những con người dũng cảm gan góc và từng lập được nhiều chiến công.

+ Việt: Từ nhỏ đã dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình; Việt cùng với chị đã chủ động tìm giặc để đánh: bắn tàu giặc trên sông, phá xe tăng địch. Khi chỉ còn một mình trên chiến trường, mình đầy thương tích nhưng Việt vẫn quyết sống mái với quân thù.

+ Chiến: một lòng một dạ quyết tâm tòng quân đánh giặc.

- Có những nét rất ngây thơ – có phần trẻ con: tranh giành công bắt ếch, thành tích bắn tàu chiến giặc.

b. Nét riêng ở Việt và Chiến:

- Nhân vật Việt: Việt là một thanh niên đáng yêu, vô tư, thơ ngây. Việt có dáng vẻ vụng về. lộc ngộc của một cậu bé mới lớn, thích bắt ếch, bắt cá, bắn chim… TRước ngày lên đường chiến đấu. Chiến bàn việc gia đình, Việt không mấy quan tâm mà chỉ mải chụp đom đóm, rồi ngủ lúc nào không hay. Vào bộ đội. Việt còn mang theo cây súng cao su, ra trận không sợ chết nhưng lại sợ ma; gặp lại đồng đội mừng quá, khóc òa…

- Nhân vật Chiến: 

+ Chiến mang vóc dáng của má, của con người lao động: “hai bắp tay tròn vo rám nắng…thân người to và chắc nịch…”

+ Chiến đặc biệt giống má khi thu xếp việc nhà trước khi cùng em trai lên đường tòng quân: biết lo liệu, thu xếp việc nhà đâu ra đấy…

+ Chiến biết nhường nhịn em nhưng cũng rất kiên quyết khi ghi tên tòng quân…

+ Là một cô gái đầy nữ tính: lúc nào cũng mang theo bên mình cây lược...

c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

- Nhà văn đã xây dựng nhân vật vừa có cá tính vừa phù hợp với lứa tuổi, giới tính…

- Nguyễn Thi đã sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ vừa thể hiện nét riêng của nhân vật vừa tạo nên màu sắc địa phương độc đáo cho tác phẩm.

- Trong người anh hùng luôn có sự kết hợp giữa cái đời thường và cái phi thường – đó là hình mẫu về người anh hùng chúng ta thường gặp trong tác phẩm của Nguyễn Thi.

3. Đánh giá khái quát:

- Khẳng định tính chính xác của ý kiến.

- Chiến và Việt là khúc sông sau chảy xa hơn trong dòng sông của một gia đình cách mạng. Họ là hiện thân cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ với những phẩm chất của người anh hùng trên quê hương nam Bộ.
 

Đề 3: Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình dị, sự cai cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và lắm khi chất anh hùng lại lộ ra qua những biểu hiện ngây thơ, ngộ nghĩnh. Qua nhân vật Chiến và Việt trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

 


1. GIỚI THIỆU CHUNG:

- Nguyễn Thi là là một trong những cây bút xăn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Ông là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam, được mệnh danh: nhà văn của người dân Nam Bộ.

- “Những đứa con trong gia đình” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở tạp chí "Văn nghệ Quân giải phóng". Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng.



2. GIẢI THÍCH Ý KIẾN:

- Trích dẫn ý kiến: “Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Nhưng đó là kiểu người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và lắm khi chất anh hùng lại lộ ra qua những biểu hiện ngây thơ, ngộ nghĩnh”.

=> Ý nghĩa:

+ Khẳng định đặc điểm tính cách của các nhân vật Việt và Chiến.

+ Nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Thi.

3. PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH:

3.1. Nhân vật Chiến:

- Chiến hiện lên với vóc dáng của một người lao động: hai bắp tay tròn vo xạm màu đỏ cháy nắng, thân người to và chắc nịch... 

- Sự đảm đang, tháo vát: Ở Chiến, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ: Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, "nói nghe thiệt gọn" khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ. Về điều này Chiến rất giống với mẹ, chính chị cũng cảm giác hòa vào với mẹ.Theo lời chú Năm, cô "không khác mẹ một chút nào".

=> Xứng đáng là người con cả, người chị trong gia đình.

- Phẩm chất anh hùng: 

+ Cô có đức tính kiên trì, chịu khó ( bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng).

+ Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc, kiên cường, quyết tâm đánh giặc đến cùng: Trong ngày tòng quân, Chiến nói với em: "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !".

- Tuy nhiên, ở chị Chiến vẫn có những nét nữ tính: lúc nào cũng có chiếc gương nhỏ trong túi, ngậm một ít tóc trông nữ tính, quan trọng nhất là có cơ hội cầm súng.

=> Nhân vật Chiến hiện lên thật bình dị, để lại nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc với tính cách đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ Nam bộ nói riêng “giỏi việc nước, đảm việc nhà”.

3.2. Nhân vật Việt: 

- Tính cách trẻ con, hồn nhiên, hiếu động:

+ Thích dành phần hơn với chị Chiến (chiến tích sông Định Thủy, dành đi lính)

+ Vô tư nên việc nhà phó thác cho chị Chiến, khi chị Chiến bàn bạc việc nhà thì “lăn ra cười khì", lúc lại "chụp một con đom đóm" rồi ngủ quên lúc nào không biết.

+ Đi lính vẫn mang theo súng cao su.

+ Dấu thư chị sợ các anh trong trung đoàn biết sẽ mất chị..

+ Bị thương ko sợ chết mà sợ ma…

+ Gặp đồng đội, Việt giống hệt thằng út em ở nhà "khóc đó rồi lại cười đó"

- Nhưng khi đi đánh giặc, Việt là người anh hùng thực thụ:

+ Luôn khắc ghi mối thù của gia đình "Mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai"

+ Quyết tâm đi đánh giặc , lập nhiều chiến công để trả thù cho ba má.

+ Trong trận chiến đấu ác liệt ở rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của đích dù bị thương rất nặng và bị lạc đồng đội. 

=> Việt được khắc họa là một nhân vật tuổi trẻ anh hùng, đại diện tiêu biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, bên cạnh đó không kém phần ngây thơ, ngộ nghĩnh.

3.3. Nghệ thuật xấy dựng nhân vật:

- Nghệ thuật trần thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật.

- Khắc họa tính cách và tâm lí nhân vật sắc sảo.

- Ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.

4. ĐÁNH GIÁ CHUNG:

- Với ngòi bút tài hoa, tác giả Nguyễn Thi đã xây dựng thành công Chiến và Việt - những nhân vật anh hùng, là thế hệ tiếp nối cha ông đánh giặc, làm dày thêm truyền thống vẻ vang của gia đình, quê hương. Đặc biệt hơn, nhà văn còn gửi gắm ở họ những nét đặc trưng của người con sông nước, những nét bình dị, chất phác mà vô cùng ngộ nghĩnh đáng yêu của những người dân Nam Bộ.

- Chiến và Việt là những anh hùng mang nét đặc trưng của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước nói chung, đồng thời họ cũng là những anh hùng mang nét khác biệt của Nguyễn Thi nói riêng.

- Nguyễn Thi xứng đáng được gọi là nhà văn của người dân Nam Bộ.
 

Đề 4: Cảm nhận về tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi.

 

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm 
gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, mẹ, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và mẹ, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và mẹ được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.

Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu.

Nét đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.

Mẹ của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng bà đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, bà là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.

Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha mẹ, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, mẹ bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.

Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống mẹ, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như mẹ, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.

Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ mẹ qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.

Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.

Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
 

 

Đề 5: Phân tích những đặcẩm sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”.

 

Viết về đề tài gia đình trong chiến tranh, truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi được coi là một tác phẩm thành công, góp phần vào sự thành công của cả tác phẩm chính là nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, độc đáo hấp dẫn.

Tác phẩm kể truyện một gia đình cách mạng, mọi thành viên đều là chiến sĩ diệt Mĩ kiên cường. Thù nhà nợ nước thống nhất làm một. Tình gia đình và tình cách mạng hoà lẫn vào nhau: ba má Việt gặp và lấy nhau vì cùng cầm súng giết giặc. Họ đều ngã xuống trong chiến đấu. Những đứa con của họ (Việt và Chiến gắn bó với nhau trong tình ruột thịt và trong niềm tự hào về truyền thống cách mạng của gia đình. Người mẹ nuôi con lớn lên để rửa thù cho cha. Những đứa con giành nhau nhập ngũ để trả thù cho ba má... Một câu chuyện như thế tuy cảm động nhưng khá nặng nề, dễ đơn điệu và trùng lặp, nếu không sáng tạo một cách trần thuật độc đáo, linh hoạt.

Tác giả đã chọn một lối trần thuật theo quan điểm của nhân vật, một chú lính trẻ tên Việt. Chú giải phóng quân này bị trọng thương và lạc đồng đội, một mình nằm giữa chiến trường sau một trận ác chiến còn để lại khói lửa mịt mù và xác giặc ngổn ngang. Chú nhớ đồng đội, nhớ chị, nhớ chú Năm, nhớ những ngày ba má còn sống, nhớ những buổi bắn chim, câu cá, bắt ếch, nhớ ngày cùng chị nhập ngũ và lên đường... câu chuyện được thuật kể qua dòng hồi ức của chú khi đứt khi nối bởi vì chú nhiều lần ngất đi rồi lại tỉnh lại. Câu chuyện vì thế không diễn ra theo trật tự thời gian, không gian tự nhiên mà theo logic chủ quan của tâm lí nhân vật nên hết sức biến hoá. Các sự việc, các nhân vật của gia đình hiện lên với màu sắc tình cảm đậm đà và hấp dẫn... Chuyện kể đến đâu thì tính cách nhân vật cũng hiện ra đến đây một cách sinh động và đậm nét.

Đây không phải thủ pháp nghệ thuật nhưng không phải ai cũng sử dụng được thành công. Phải am hiểu sâu sắc tâm lí nhân vật... phải nhập vai nhân vật và nói được đúng giọng nhân vật..Đây là sở trường của Nguyễn Thi, nhà văn của người nông dân vùng đồng bằng Nam Bộ.

Bên cạnh nghệ thuật kể chuyện độc đáo, vừa phân tích, Nguyễn Thi vừa xây dựng được những tính cách nhân vật phong phú, hấp dẫn. Qua dòng hồi tưởng của Việt, một “đứa con trong gia đình" cách mạng, ta thấy hiện lên các nhân vật: ba, má Việt, chú Năm, chị Chiến và Rất dễ dàng nhận thấy cả năm nhân vật đều cùng chung bản chất, xét về phương diện phẩm chất cách mạng: yêu nước, căm thù giặc, thuỷ chung với cách mạng và tự hào truyền thống mạng của gia đình.

Ngoài ra, những nhân vật chính diện của Nguyễn Thi thường có một tính :chất chung này gọi là: “Chất út Tịch”, ấy là cái tinh thần kiên cường gan góc, thù ngùn ngụt, say mê chiến đấu, dường như sinh ra là để cầm súng giết giặc. Tuy nhiên mỗi người lại có một gương mặt riêng, một tính cách khác nhau. Chỗ đặc sắc của nghệ thuật khắc hoạ hình tượng nhân vật của Nguyễn Thi là ở Đáng chú ý hơn cả là ba nhân vật chú Năm, Chiến và Việt.

Chú Năm đúng là một người nông dân Nam bộ, thật thà, vui tính, bộc trực, người này rất giàu tình cảm và trí tưởng tượng lãng mạn, nhất là khi nổi cảm hứng và cất tiếng hò: “Lúc đó, gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mặt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm chính Việt là nơi cụ thể để chú gởi gắm những câu hò ấy, hoặc chính Việt là những câu hò đó. Theo từng câu hò, khi thì Việt biến thành tấm áo quàng hoặc sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn Biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”.

Chiến là một cô gái mới lớn lên, tính khí còn rất “trẻ con”: tranh công bắt ếch, tranh công bắn tàu giặc với em... Ngay trước khi nhập ngũ để trở thành một giải phóng quân, vẫn giành nhau với em để đi bộ đội trước... Nhưng khác với đứa em trai, cô có thể ngồi lì suốt một buổi chiều để đánh vần cuốn sổ ghi công đình của chú Năm - đây là cái chất gan lì thừa hưởng từ mẹ. Ba má mất cả, là chị nên sớm biết nhường nhịn em, sớm biết tính toán lo liệu việc nhà. Điều này thể hiện rất rõ trong giờ phút cùng em lên đường đánh giặc để trả thù ba má. Không phải ngẫu nhiên mà Việt thấy chị nghĩ ngợi, nói năng “nghe in như má vậy” còn chú Năm thì thật sự tán phục “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thất, đặng bề nước noa..”

Ngoài ra ở nhân vật này có một chất trẻ trung và cái duyên dáng của một cô thiếu nữ, thể hiện ở cái cử chỉ bịt miệng cười khi chú Năm cất tiếng hò, ở nét lông mày cau lại, chéo khăn hờ ngang miệng, cặm cụi ngồi đánh vần cuốn sổ chú Năm, ở cái tiếng “hứ một cái cóc” khi cậu em bảo mình nói năng hệt như má vậy...

Việt thì tỏ ra là một cậu con trai của đồng quê, tính hiếu động (suốt ngày lang thang bắn chim, câu cá, bắt ếch, lúc nào cũng có cái ná thun trong người, tể cả khi đã đi bộ đội...), hiếu thắng (Bắt ếch, bắn tàu giặc, ghi tên nhập ngũ bao giờ cũng tranh phần hơn). Là con trai, là em (quen được chiều chuộng) nên mọi việc đều được ỉ lại cho chị, cho chú; chỉ kém chị một tuổi, “trẻ con” hơn nhiều và vô tâm vô tính chẳng biết lo nghĩ gì, kể cả ngày nhập ngũ... Là trai, Việt thường che dấu tình cảm uỷ mị, nhưng bản chất rất giàu tình cảm. Nằm ở chiến trường, chú nhớ má, nhớ chú Năm, chị Chiến, nhớ thằng em nhớ anh em đồng đội. Chú “Ước gì bây giờ lại được gặp má. Phải, ví như má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xong cơm đi làm đồng để dưới xuồng lên cho Việt ăn...”. Chú nhớ chị thương chị vô cùng, tuy vẫn giành phần hơn với chị, ở đơn vị, chú giấu biệt chị đi vì chỉ sợ lộ ra họ sẽ lấy mất chị. Cách thể hiện tình cảm đích đáng nhất ở Việt là đánh giặc. Đấy là cách thương má, thương ba, thương chị, thương chú Năm của Việt cho nên khi đồng đội tìm thấy Việt nằm ngất đi ở chiến trường ngón tay chú vẫn đặt trên cò súng và một viên đạn đã lên nòng sẵn sàng bắn vào quân giặc...

Ngoài nghệ thuật kể truyện, ngoài thành công trong cách xây dựng nhân Những đứa con trong gia đình còn có những đoạn văn tuyệt hay ấy là đoạn Việt nhớ lại ngày chị em Việt ghi tên tòng quân và chuẩn bị lên đường.

Đêm ấy hai chị em trò truyện với nhau, thu xếp chuyện nhà chuyện chuyện cửa, gửi lại chú Năm bàn thờ má và thằng em út, chuyện hứa hẹn, khuyên nhau... Chị Chiến bỗng ăn nói nghiêm trang, xưng chị em (chứ không mày tao như mọi khi), bàn bạc, dặn dò em y hệt như giọng của mẹ xưa. Còn Việt thì vẫn rất trẻ con, mặc cho chị lo toan tất cả. Nhưng chú nhớ má vô cùng và tưởng như má cũng trở về để ngó coi chị em Việt tính chuyện nhà chuyện cửa như thế nào trước lúc lên đường. Đây là một đoạn đối thoại rất sinh động, vui và cảm động.

Sáng hôm sau, trước lúc lên đường, chị em Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên chú Năm. Việt thương chị vô cùng, thương má vô cùng. Mối căm thù trĩu nặng trên vai như một trọng lượng cụ thể. Đây cũng là một đoạn văn có thể làm rơi nước mắt:

“Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bỗng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú. chúng con đi đánh giặc trả thù cho mà đến chừng nào nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chiến khiêng lịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị Việt Ihâý thương chị. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể sờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”.
 

Đề 6: Phân tíchtác phẩm “Những đứa con trong gia đình”

 

Những đứa con trong gia đình là câu chuyện của một gia đình, một dòng họ nhưng cũng là câu chuyện của bao nhiêu gia đình khác trong chiên tranh chống Mỹ,cứu nước, vẫn là chuyện bi thương, sống chết... Những chuyện gắn liền với mưa bom bão đạn. Vậy mà Nguyễn Thi vẫn có cách riêng để xử lí rằng, để dựng thành một truyện ngắn đặc sắc, đậm nét Nam Bộ, chịu được thử thách của thời gian, một truyện ngắn tiêu biểu - nếu không nói là đỉnh cao - của phong cách nghệ thuật Nguyễn Thi.

Cốt truyện Những đứa con trong gia đình không có gì phức tạp. Đó là câu chuyện của chị em Việt, Chiến - Những đứa con trong một gia đình có quá nhiều mất mát đau thương: cha bị Tây chặt đầu, má bị đại bác Mỹ bắn chết. Mới bước vào ngưỡng cửa của tuổi trưởng thành. Họ tranh nhau tòng quân để rồi cả hai người cùng nhập ngũ, cũng được ra mặt trận. Trong một trận đá Việt diệt được một xe tăng và sáu lên Mỹ. Bị thương nặng, Việt phải nằm lại chiến trường còn ngổn ngang dấu vết bom đạn, nhưng anh vẫn cố gắng nhoài từng nấc để dò đường về đơn vị. Ba ngày lạc đồng đội, trơ trọi một mình trận địa, có bao nhiêu hồi tưởng về gia đình, về những người thân đến với Việt. Cuối cùng đồng đội đã tìm thấy anh, Việt lại về sống trong tình yêu thương đùm bọc của anh em.

Chuyện thì đơn giản như vậy nhưng Nguyễn Thi lại biết dẫn dắt câu chuyện một cách sinh động. Theo sự hồi tưởng của nhân vật chính (Việt) hiện tại quá khứ, mặt trận và làng quê cứ đan xen vào nhau, cắt nghĩa cho nhau để làm nổi rõ chủ đề của truyện.

Việt và Chiến là hai chị em ruột. Con đường đến với mặt trận của họ xuất phát từ đâu? Nguyễn Thi không miêu lả dài dòng, ông chỉ lọc lấy một vài chi tiết đặc quánh hiện thực, tự nó làm sống lại cái quá khứ bi thương của gia đình Việt, để lí giải nguyên do ihúc đẩy những đứa con trong gia đình đi tòng quân. Cuốn sổ gia đình mà Việt, Chiến dùng để đánh vần chính là “cuốn gia phả" bi thương của một dòng họ, ở cuốn gia phả ấy, mỗi trang, mỗi dòng đều thấm máu và nước mắt người thân của họ, từ ông bà đến má chú bác, ngày nào kẻ thù gây ra đau thương cho gia đình cũng bị ghi chép một cách cụ thể. Ở “cuốn gia phả” ấy không chỉ có bi thương mà còn có chiến công dù “thỏn mỏn” hay to lớn những chiến công do cha ông họ, do chính họ viết nên. Học chữ từ cuốn sổ gia đình thực chất là để học lấy cái đạo lí người, nhớ lấy đau thương. Nhớ lấy cái mối thù sâu nặng và để viết tiếp những chiến công cho lịch sử gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà chú Năm - người đại diện cho thế hệ đi trước, người chấp bút “cuốn gia phả” - lại ghi câu này: "Còn nhiều việc thỏn mỏn tôi không ghi hết, để rồi sắp nhỏ nó ghi thêm” và kế câu đó là chiến công của chị em Việt trên sông Định Thuỷ. Thiết tưởng đây không phải là chuyện nhớ gì ghi nấy, mà là chuyện trọng đại: lời dặn dò của thế hệ trước với thế hệ sau, một sự gởi gắm đầy tin tưởng của cha ông với cháu con. Và quả thực lớp trẻ như Việt, Chiến đã không phụ lại niềm tin đó.

Mồ côi cha mẹ, lại phải sống trong chiến tranh, ở hoàn cảnh đó, con người thường bị hụt hẫng về tình cảm, rất dễ khủng hoảng tinh thần, nhưng không, chị em Việt vẫn trụ lại trước cuộc đời, vẫn không đơn côi lẻ loi, vẫn thấy rõ con đường của mình phải đi. Khát vọng lớn nhất của họ là được tòng quân, là được hoà nhập vào cuộc chiến của quê hương đất nước, kế tục truyền thống đánh giặc của cha ông.

Viết về tuổi thơ miền Nam thời chống Mỹ, ngòi bút của Nguyễn Thi vừa đồng cảm trìu mến thiết tha, vừa trân trọng khâm phục ngợi ca. Dường như, ở những đứa con trong gia đình bút lực của ông dồn vào hai nhân vật tuổi trẻ là Việt và Chiến. Mỗi nhân vật này đều là hình tượng nghệ thuật hấp dẫn mà hâp dẫn lớn nhất chính là sức trẻ, là nghị lực vượt lên sự khắc nghiệt của chiến tranh.

Việt, nhân vật trung tâm của truyện, bước vào đời lính với tất cả sự trẻ trung, hồn nhiên, ngây thơ. Ngày chưa đi bộ đội, Việt còn trẻ con lắm, luôn tranh nhau phần hơn với chị từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, đi bắt ếch với chị hay cùng chị vào du kích đánh giặc, bao giờ Việt cũng tranh công lớn về mình. Chưa một lần xa nhà xa chị, đến lúc đi bộ đội. Việt gặp những cảnh vật của vùng quê khác: “những ngọn đồi, những con đất đỏ như gạch non. những vỏ trái cao su nổ lách tách dưới trời mưa mở ra hình dáng những chiếc sừng trâu nhọn và sắc, những con đường sắt có hai ngoe thôi, coi thật ngộ, chân người bước lên còn té, vậy mà xe chạy được”, “cái gì cũng lạ đối với anh”. Dấu vết trẻ thơ còn đậm trong con người Việt. Chả thế mà có lúc cách nghĩ của anh rất đơn giản. Mỗi lần nghe đồng đội gọi mình là “Cậu Tư” nghe vui, chan hoà yêu thương đồng đội nhưng Việt cố giấu tình anh em là mình có chị gái vì “sợ mất chị", cũng là cách nghĩ trẻ thơ, vừa buồn cười vừa thật đáng yêu! Nhưng kì diệu thay, chính con người mà tâm hồn còn non trẻ ấy lại vượt qua được cái khốc liệt của chiến tranh với một nghị lực phi thường. Quên hết mọi đau đđn, quên cả tính mạng chông chênh, Việt rượt đuổi chiếc xe bọc thép, “chỉ nhớ mình đang mát nhẹ như bay, giờ đây mình có một cánh tay phải ráng bám chặt vào thành xe và một tay mở cho được trái thủ pháo”. “Giặc còn thì còn chết”. Câu nói như một lời hứa thân thuộc từ một nơi nào đó rât xa dội lại. Cái xe vẫn chạy thục mạng. Giặc ném lựu đạn nổ ùng oàng đằng sau. Việt cũng không biết.

“Chiếc xe bọc thép cháy bừng lên, một ngọn lửa xanh liếm ngang ngọn cao su. Trái thủ pháo của Việt đã nổ gọn trong lòng nó”.

Chỉ hằng một vài chi tiết tiêu biểu cùng với nhịp điệu dồn dập. khẩn trương của những câu văn ngấn gọn trên đây, Nguyễn Thi đã diễn tả sinh động cái sức mạnh ngoan cường trong người lính trẻ. Phải chăng lòng căm thù giặc vốn dồn nén trong lòng Việt, theo má đi đòi đầu ba, cùng với tình yêu thương và cả sức lực của tuổi trẻ nữa đã tạo nên sức mạnh giúp Việt “Vụt lớn khôn hơn, can đảm hơn” để vượt qua ranh giới của tuổi thơ và “tạo nên những chuyện bất ngờ của tuổi trưởng thành”.

Viết về chiến tranh, nhất là con người trong chiến tranh, Nguyễn Thi không dễ dãi hời hợt, không né tránh mất mát đau thương; trái lại ông luôn cố gắng phản ánh trung thực cái hiện thực đang tồn tại với tất cả xù xì, phức tạp của nó. Miêu tả nhân vật Việt, ông tập trung khai thác cái chiến công vượt lên chính mình để tìm về đơn vị của Việt khi anh đơn độc trên chiến trường mù mịt “khói trắng của lửa đạn”, “sắt thép ngổn ngang, những tấm tăng cháy dở còn nóng hổi, những thùng đạn ngập trong đất, những đống đạn còn tanh máu...”. Ba ngày, một mình Việt phải sống trong cái không gian im lặng, bốn bề khói lửa chiến tranh là ba ngày Việt giành giật sự sống. Mà muốn có sự sống không phải chiến chuẩn bị chiến đấu với kẻ thù mà còn phải chiến đấu với tử thần, “Khắp người anh đang rỉ máu, chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vãi trấu... các ngón tay tê nhức, miệng tê cứng, hai mắt sưng lên…”, ấy vậy mà Việt vẫn lê từng tấc đất, hướng về phía súng nổ, nơi đó là trận đánh bởi vì “chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống”. Thật là một nghị lực phi thường! Trong ba ngày đơn độc ấy, lúc nào Việt cũng hướng về đồng đội với một niềm tin vững chắc: đồng đội “đang đổ lên giặc Mỹ những đám lửa dẽ dội”, đồng đội đang tìm anh ở đâu đó. Không có niềm tin ấy chắc Việt không thể vượt qua nổi những cơn đau thể xác đang hành hạ anh. Tất nhiên không phải Việt không có lúc nào nghĩ đến cái chết, có điều khi nghĩa đến cái chết, cách nghĩ của anh vẫn là cách nghĩ của trẻ thơ nhiều hơn là người lớn: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết tức là người thật biến lên trên nóc nhà, còn người già thì nằm tại đó?” và vẫn là cách nghĩ nghĩa tình của con người gắn bó với đồng đội “chết mà không còn được ở chung với anh Tánh và không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm”. Nghĩ về cái chết như vậy thì chẳng bi quan một chút nào!

Miêu tả nhân vật Việt giành giật sự sống nơi trận địa, Nguyễn Thi còn làm nổi rõ đời sống tình cảm của nhân vật này trong mối quan hệ với những người thân ở quê hương. Qua những hồi ức của Việt tưởng như rời rạc nhưng thực ra chúng liên kết với nhau rất chặt chẽ, ta hiểu thêm rất nhiều đời sống tình cảm của anh, ta cũng hiểu thêm cội nguồn tạo nên sức mạnh ở con người Việt. Mỗi lần tỉnh dậy, Việt cố quên đi nỗi đau thể xác, anh luôn luôn nghĩ đến người thân. Khi là chú Năm, con người bộc trực yêu đời có “giọng hò đã đục và tức như gà gáy mà Việt rất yêu thương; khi là chị Chiến bao giờ cũng nhường nhịn Việt và Việt nhớ má nhiều nhất. Trong hồi ức của Việt, má anh hiện lên đẹp đẽ và cũng rất đau thương. Đó là một bà má Nam tảo tần hết lòng thương yêu chăm sóc con cái gan góc can trường. Nỗi nhớ của Việt thật cụ thể, Việt nhớ từ đôi mắt mở to hai đôi bắp chân tròn vo của má “lội hết đồng này sang đồng khác”, “tìm việc nuôi chị em Việt đến câu trả lời đanh thép trước kè thù của má” “Vợ Tư Năng đấy!" Việt nhớ tới cái chết của ba, cái chết của má, nhớ tới những tội ác của kẻ thù đã gây ra cho gia đình anh. Nhớ tới người thân, Việt cảm thây đỡ cô đơn nơi chiến địa. Chính yêu thương và nghĩa tình sâu nặng cùng với sức lực của tuổi trẻ, niềm tin vào đồng đội đã tạo nên sức mạnh phi thường ở nơi anh, giúp anh vượt qua ranh giới của cái chết để trở về với đội ngũ.

Xây dựng nhân vật Việt, Nguyễn Thi tập trung miêu tả sức mạnh của tuổi trẻ ở chính nơi chiến trường, trong lúc đối mặt trực tiếp với kẻ thù, với bom đạn, với ranh giới của sự sống và cái chết. Tuy nhiên, viết về tuổi trẻ, Nguyễn Thi không dừng lại ở đó, ông còn bật mí chị không muốn em mình phải đối đầu với bom đạn, muốn giành lấy cái phần hiểm nguy về cho mình. Đấy, cái chiều sâu yêu thương tâm hồn Chiến là như vậy. Cao thượng và đẹp đẽ biết bao!

Đọc Những đứa con trong gia đình, chúng ta có thể tìm thấy nhiều nét đặc trưng phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi. Khắc hoạ tính cách nhân vật, ông thường sử dụng tối đa thủ pháp tương phản, ở truyện ngắn này cũng vậy. Xây dựng nhân vật Việt, Nguyễn Thi đã tạo ra nhiều sự tương phản. Có sự tương phản giữa cái hồn nhiên ngây thơ với ý thức chiến sĩ sâu sắc, giữa sự đớn đau đến tột cùng của mọi cảm giác với mọi phi thường vượt lên đớn đau, giữa cái lặng im đến ghê người với tiếng nổ của trận đánh diệt thù và đặc biệt cái dữ dội khói lửa của mặt trận với cái ấm áp nghĩa tình của gia đình, thôn xóm. Tất cả những sự tương phản này càng làm nổi rõ phẩm chất ngoan cường, đời sống nội tâm phong phú, tình cảm cao đẹp của Việt.

Viết về chiến tranh, bên cạnh việc miêu tả cái bề bộn của nó, đôi khi Nguyễn Thi xen vào trang viết của mình những bức tranh sinh hoạt thân thiện làng quê Nam bộ. Những đêm trời mưa Việt đi bắt ếch, những ngày hè có tiếng chim cu gù đâu đó, cảnh sông nước ngày mùa, dù chỉ ở dạng phác thảo củng vẫn có hồn có sắc... Chính những phác thảo này tạo nên chất trữ tình cho tác phẩm làm cho câu chuyện viết về chiến tranh bớt đi cái nặng nề. Do vậy mà liệu quả thẩm mĩ được nâng cao.

Không phải ai cũng tự nhiên mà ra trận, tự nhiên mà thành người chiến sĩ hay anh hùng. Mỗi người anh hùng đều ra ưtrn với một nỗi đau, nỗi đau càng lớn thì sức mạnh càng cao. Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ này chính là sự kết lại của những nổi đau lớn, có khi vô cùng lớn. Đó là lời giải thích toát ra từ mỗi dòng chữ của Nguyễn Thi trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.

Cái hay của Nguyễn Thi không phải là đi từ một nhận định sẵn có để rồi lấy cuộc sống, trong số phận mỗi nhân vật của mình kể lại, kể một cách hồn nhiên, một cách xúc động như chính đó là số phận của mình. Và còn điều này nữa, chắt lọc một cách thông minh, để cho mỗi chi tiết đều có vị trí xứng đáng, đầy ắp sức sống, sức tái hiện và cả sức khơi gợi liên tưởng.
 

Đề 7: Điểm giống và khác nhau của hai nhân vật Việt và Chiến trong “Những đứa con trong gia đình”

I. MỞ BÀI

Những đứa con trong gia đình thuộc số những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Thi. Thành công nổi trội của truyện là nghệ thuật xây dựng các tính cách nhân vật với cá tính đậm nét, đặc biệt là hai nhân vật Việt và Chiến.

II. THÂN BÀI

1. Hai nhân vật có nhiều nét giống nhau về bản chất vì họ đều xuất thân từ một gia đình có truyền thống yêu nước và cách mạng

a) Thương cha thương mẹ, căm thù giặc sâu sắc, cùng một ý chí cầm súng đánh giặc trả thù cho ba má

- Giành nhau ghi tên tòng quân.

- Khiêng bàn thờ má gửi sang nhà chú Năm trước khi lên đường nhập ngũ “Nào, đưa má sang...đè nặng ở trên vai”.

b) Dũng cảm gan góc và từng lập nhiều chiến công

- Bắn tàu chiến từ giặc trên sông, phá xe tăng địch trong trận đánh giáp lá cà.

- Cuộc đối thoại giữa hai chị em trước lúc lên đường đánh giặc: (Chú Năn nói...vậy à!)

c) Tuổi đời còn rất trẻ, ngây thơ như con trẻ

- Chị mười tám, em mười bảy.

- Giành nhau mọi thứ như trẻ con: trong việc bắt ếch, ghi tên tòng quân, bắn tàu chiến Mĩ.

2. Nhân vật có tính chất khác nhau, Chiến là chị, Việt là em

a) Chị kiên trì: ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình của chú Năm.

- Em hiếu động: thích bắt ếch, câu cá, bắn chim...

b) Chị chưa hết tính trẻ con, có lúc còn tranh nhau với em nhưng vì thương em nên cuốì cùng cũng nhường em: nhường phần ếch nhiều, nhường cả vết đạn bắn tàu giặc trên sông Định Thuỷ.

- Em thì hiếu thắng: còn trẻ con hơn, là em nên không chịu nhường.

c) Chị đảm đang, tháo vát, khôn ngoan, già dặn trước tuổi: lo toan việc nhà chu đáo trước khi lên đường, khiến Việt thấy chị giống hệt Má ngày trước và chú Năm cũng phải khen chị.

- Em thì phó mặc tất cả, ừ ào khi nghe chị bàn việc nhà, rồi “ngủ quên lúc ỉào không biết”, đi bộ đội vẫn giữ chiếc ná thun, đánh giặc không sợ chết nhưng lại sợ ma...

- Chị là cô gái mới lớn, bắt đầu thích soi gương, đi đánh giặc vẫn có cái gương trong túi...

III. KẾT BÀI

Chiến và Việt, hai nhân vật trung tâm của truyện Những đứa con trong gia đình, bản chất có nhiều nét giống nhau, nhưng cá tính thì thật phong phú, mỗi người đều mang nét riêng và cả hai đều đáng yêu, đáng mến. Họ mang những vẻ đẹp tiêu biểu cho thế hệ trẻ Miền Nam cầm súng diệt Mĩ, cứu nước cứu nhà.
 

 

Đề 8: Cuối đoạn trích “Những đứa con trong gia đình” là những hình ảnh nào? Ý nghĩa?

 

a. Hình ảnh cuối đoạn trích: “Chị Chiến đứng ra giữa sân,kéo cái khăn trên cổ xuống,cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng,rồi dang cả than người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên.Việt ghé vào một đầu

b. Ý nghĩa:

- Thể hiện sự đảm đang,tháo vát,biết chăm lo việc gia đình của Việt và Chiến.Cho thấy hai chị em đã trưởng thành và có thể gánh vác mọi trọng trách của gia đình và XH.

- Tình cảm của Việt dành cho chị: Việt thấy thương chị.Chứng tỏ Việt tuy ngộc nghệch,vô tư nhưng có tình cảm gia đình sâu sắc.

- Lòng căm thù giặc của hai chị em và nỗi đau thương mất mát của gia đình “Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được vì nó đang đè nặng ở trên vai”.

- Có yếu tố tâm linh tạo nên tình cảm thiêng liêng,cảm động.

 

 

Đề 9: Câu hò của chú Năm được Việt cảm nhận như thế nào? Ý nghĩa câu hò của chú Năm

 

a. Câu hò của chú Năm được Việt cảm nhận: “giọng hò đã đục và tức như gà gáy”. “Không phải giọng hò trong trẻo đêm bay ra hai bên bờ sông,rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú.
Câu hò nổi lên giữa ban ngày,bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang,rồi kéo dài,từng tiếng một vỡ ra,nhắn nhủ,tha thiết,cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.”

b. Ý nghĩa câu hò của chú Năm:

- Chú Năm đã lớn tuổi,giọng hò không hay.Nhưng chú rất hay hò.Việc hò này như một nét đẹp văn hóa của người dân Nam Bộ khi muốn gửi gắm tâm sự. Mỗi khi chú Năm hò,hay đặt tay lên vai Việt,mắt nhìn thẳng vào mắt Việt.

- Câu hò ấy là những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước,lăn lộn với ruộng vườn. Nó cũng chứa đựng trong đó những giá trị đạo lí,tình nghĩa,thủy chung. Từng câu hò đã thấm vào tâm hồn hai chị em Chiến và Việt,là giá trị tinh thần hun đúc tình yêu gia đình,yêu quê hương đất nước cho hai chị em,đồng thời cũng là nguồn cổ vũ hai chị em trong chiến đấu.

 

Đề 10: Tóm tắt “Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi

 

Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.

Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… .

Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”.

Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức tòng quân, nhưng Chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tin, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và “bật mí” chuyện Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.

Sáng hôm sau, hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình “thương chị lạ”.
Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công của mình chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và mong ước của má.

 

Đề 11: Vẻ đẹp chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua nhân vật Tnú và nhân vật Việt

 

Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “ Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Dẫu hai tác phẩm ấy được viết theo hai phong cách khác nhau nhưng cả hai nhà văn đã gặp nhau ở nơi hội tụ của mọi ánh sáng văn chương chân chính mọi thời đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng lớn lao, cao cả, hào hùng. Vẻ đẹp ấy được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật Tnú và nhân vật Việt.

Mỗi nhà văn có một sở trường riêng về một đề tài và khi nhắc đến văn học kháng chiến chống Mĩ ta không thể không nhắc đến hai nhà văn tiêu biểu đó là Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi. Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932 ông là nhà văn có sở trường viết về vùng đất Tây Nguyên anh hùng, bất khuất. Nguyễn Thi (1928-1968) tuy là người Bắc nhưng ông lại có cảm tình sâu sắc với mảnh đất Nam Bộ. Chính vì vậy ông đã được coi là nhà văn, con người Nam Bộ kiên cường. Cả hai tác giả đều gắn bó với cuộc kháng chiến chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở hai tuyến đầu máu lửa của Tổ quốc Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” (1965) và “Những đứa con trong gia đình” (1966) đã phản ánh thật rõ ràng và đậm nét ý chí quyết tâm đánh giặc ngoại xâm của dân tộc ta; lòng căm thù giặc cũng như những phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ trong công cuộc đấu tranh để gìn giữ non sông của cha ông ngàn đời. Nhân vật Tnú và Việt trong hai tác phẩm là hai nhân vật tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của con người Việt Nam trong kháng chiến. Ở họ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cao cả và thiêng liêng nhất chính là vẻ đẹp anh hùng cách mạng .

Vậy thế nào là chủ nghĩa anh hùng cách mạng ? Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc. Tnú và Việt là sự kết tinh của chủ nghĩa anh hùng cao đẹp ấy.

Trước tiên đọc tác phẩm “Rừng xà nu” ta có thể dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp anh hùng rực rỡ ở nhân vật Tnú. Tnú là người con của dân làng Xôman, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng “có cái bụng thương núi, thương nước”, Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm. Từ tấm lòng này, Trú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó trung thành thủy chung sâu nặng với Cách mạng, cán bộ Cách mạng. Bởi ngay từ khi còn là một cậu bé, Tnú được cụ Mết, người gìn giữ và truyền ngọn lửa Cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn nước non này còn”. Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách của người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mỹ. Dù còn nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo, đầy quả cảm như Kim Đồng, Lê Văn Tám, Vừ A Dính… Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu những người đi nuôi cán bộ – đầu anh Xút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng đầu bản xóm, Tnú đã cùng với Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn và đầy nguy hiểm nhưng Mai và Tnú đã làm rất tốt để dân làng Xô man mãi tự hào ” Năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt hoặc bị giết ở trong rừng”.

Tnú còn là một người có phẩm chất chính trực, trong sáng, trung thực, thẳng thắn như cây xà nu. Tnú quyết tâm học cho được cái chữ Cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết, nếu không may anh Quyết bị hy sinh. Tnú có cái đầu sáng lạ lùng trong việc tìm đường rừng để đưa thư cho anh Quyết. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi vậy, khi học chữ thua Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách “cầm hòn đá tự đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng”. Hành động này có cái gì đó hơi nóng nảy, nông nổi nhưng nó biểu lộ ý chí, quyết tâm sắt đá của một con người có chí khí, vì không học được chữ nên tự trừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn.

Làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết, Tnú có cái đầu sáng lạ lùng. Vốn là con người nhanh trí, táo bạo thích mạo hiểm, Tnú không bao giờ đi đường mòn, bị giặc vây các nẻo đường, Tnú leo lên cây cao xé rừng mà đi vượt qua mọi vòng vây. Tnú không vượt qua suối những nơi nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm như cưỡi lên lưng con cá kình. Có lần vượt qua thác, chuẩn bị lên bờ thì họng súng đen ngòm đã chĩa vào gáy lạnh ngắt. Tnú kịp nuốt lá thư của anh Quyết vào bụng bảo đảm bí mật. Tnú bị giặc giam cầm ở ngục tù Kontum với biết bao đòn roi, thương tích. Địch tra tấn hỏi “Cộng sản ở đâu?” Tnú đã không ngần ngại đặt tay lên bụng và nói: “Ở đây này!”.Và lưng Tnú lại hằn lên những vết dao chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thủy chung, trung thành với Cách mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù “Uy vũ không thể khuất phục”.

Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Và Mai, người bạn từ thuở thiếu thời, đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng và thủy chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên. Song kẻ thù tàn bạo dã man đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh thần Cách mạng của Tnú, người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn đầy xúc cảm và ấn tượng “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy… bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Căm thù đau nhói trong tim và bừng cháy trong hai con mắt – một chi tiết thật dữ dội. Tnú nhảy vào giữa đám lính, hai cánh tay như cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Nhưng không còn kịp nữa!
Tnú bị bắt, bị trói. Vợ và con chết cả rồi nhưng Tnú không khóc. Anh ghìm nén nỗi đau, cố gắng vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Trước cái chết cận kề, Tnú không hề run sợ mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ “Đứa con chết rồi. Mai chắc cũng đã chết. Mình rồi cũng chết thôi”. Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt và băn khoăn nhất chính là không sống được đến ngày cùng dân làng Xô man đánh giặc, rồi khi có lệnh của Đảng cho đánh ai sẽ lãnh đạo dân làng Xô man ? Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đã đặt cái chung, cái nhiệm vụ lên trên bi kịch của mình. Đó là thái độ biến đau thương thành hành động.

Giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu để đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí đấu tranh của dân làng Xô man. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng đã vô tình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô man. Một ngón, hai ngón rồi ba bốn ngón của Tnú bốc cháy. Không gì đượm băng lửa Xà nu. Mười ngón tay của Tnú nhanh chóng thành mười ngọn đuốc sống. Kì lạ thay, người Cộng Sản ấy không hề kêu van, dù “răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Đúng rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng Tnú đã thét lên một tiếng “Giết”. Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng, làm lay động tâm can con người. Và cộng hưởng cùng tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà Ưng, tiếng cụ Mết ồ ồ “Chém! Chém hết, Giết, giết hết!”, Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn của dân làng Xôman. Trong phút chốc họ đã chứng kiến cảnh : “xác 10 tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa.”

Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị mà sâu xa của cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: “sau này, tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cấm giáo”. Đó là chân lý của Cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật nghiệt ngã nhưng tất yếu: Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng của nhân dân. Câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biều cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.

Đến với “những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi cũng đã khắc học rất thành công vẻ đẹp anh hùng cách mạng sáng ngời của nhân vật Việt. đó là một cậu con trai mới lớn, hồn nhiên, vô tư luôn tranh giành với chị ngay cả trong cuộc sống bình thường lẫn khi đi đánh giặc. đêm trước ngày đi bộ đội trong khi Chiến bàn bạc chuyện gia đình và nói với em những lời trang nghiêm thì Việt lúc “ lăn kềnh ra ván cười khì khì” lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” và cuối cùng “ngủ quên lúc nào không biết”.

Đứa con trai ngây thơ ấy còn là một người con, một người cháu, một người em, một người đồng đội giàu tình cảm và sống rất tình nghĩa. Vốn mồ côi cha mẹ, chị Hai ở xa, đứa em út còn nhỏ, tình cảm thương yêu của Việt đối với chị thật sâu đậm. sau khi cùng ghi tên vào bộ đội, sắ xếp việc nhà xong Việt và chiến cùng khiêng bàn thờ má gởi chú Năm: “ Việt khiêng trước.Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thầy lòng mình rõ như thế”. Ngoài tình thương chị Việt còn rất thương mến chú Năm. Tình cảm đó hình thành từ những ngày Việt còn nhỏ “ Việt thương chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt. Mỗi khi cất giọng hò, chú làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó”. Trong lúc Việt bị thương hình ảnh của cha mẹ thân yêu luôn chập chờn ẩn hiện trong hồi ức của Việt với bao kỉ niệm chua xót lẫn ngọt ngào “dường như cả cuộc đời vất vả của má, mọi ý nghĩ lặng lẽ trong đêm của má, cả những hiểm nguy gian lao của má đã trải qua một cách không hề sợ hãi, tất cả đều gom lại và dồn lại vào trong ý nghĩa cuối cùng này: “để má ráng nuôi bây lớn coi bây có làm được gì cho cha mày vui không?”.

Nhưng có lẽ đẹp đẽ hơn cả ở Việt-làm nên vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng chính là tinh thần chiến đấu quả cảm , kiên cường. Việt không chỉ là một con người giàu lòng yêu thương mà còn là một chiến sĩ giải phóng quân dũng cảm, mang trong mình dòng máu gia truyền của những con người gan góc không bao giờ khuất phục trước sự tàn bạo. Việt đã chiến đấu bằng tất cả sức mạnh lần thể chất tinh thần, bằng ý chí bất khuất thừa hưởng từ một gia đình cách mạng. Ông nội , chú Năm, ba Việt đều tham gia kháng chiến. Cha bị chặt đầu, mẹ bị trúng pháo của giặc .. những hình ảnh đó mãi in sâu trong tâm trí Việt. chính mối thù nhà là động lực thúc đẩy hai chị em việt anh dũng chiến đấu.

Giữa trận đánh, Việt bị thương nặng. mất liên lạc với đồng đội, trơ trọi một thân, đói khát, mình đầy thương tích, Việt vẫn can đảm chịu đựng. dù lúc tỉnh lúc mê, Việt vẫn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu mỗi khi choàng dậy “ Việt day họng sung về hướng đó “ nếu mày đổ quân thì sung tao còn đạn” Việt ngầm bảo bọn địch khi nghe tiếng xe bọc thép của chúng chạy mỗi lúc một gần. Cuối cùng khi đồng đội đã tìm được Việt dù kiệt sức, anh vẫn giữ được tư thế chiến đấu sinh tử với kẻ thù “một ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích , một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu dấu xe bọc thép còn nằm ngang dọc” hình ảnh đó đã cho ta thấy tính cách anh hùng của Việt một chàng trai yêu nước ,sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Một dáng vóc cao cả, phi thường, đáng khâm phục.

Có thể nói, xây dựng hình tượng nhân vật Tnú và Việt hai nhà văn đã thể hiện sự trân trọng sâu sắc trước những con người của dân tộc, vì dân tộc. Cùng được sáng tác trong kháng chiến chống Mĩ nên ở hai nhân vật đều có nhiều nét tương đồng trong vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng. Họ là những người con đã kế thừa xuất sắc truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi tất cả người dân đều hướng về cách mạng. Còn Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam Bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. Họ đã phải chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc: Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó đã hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

Không chỉ vậy ở họ còn mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm.Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ. Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé.,còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

Có thể nói Tnú và Việt đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Tuy nhiên, không chỉ có những nét chung độc đáo vẻ đẹp anh hùng cách mạng ở nhân vật Tnú và Việt mà còn mang những nét riêng khác biệt. Việt là một con người được sinh ra và trưởng thành trên miền non nước Nam Bộ vì vậy ở anh có tính chất sôi nổi, bộc trực, trọng nghĩa. Còn Tnú lại hiện lên với hình ảnh “vóc dáng vạm vỡ” chứa trong đó cái mênh mang, hoang dại, trong sạch của núi rừng, ở Tnú nổi bật lên với vẻ đẹp của một con người Tây Nguyên huyền thoại, kỳ vĩ, đậm chất sử thi.

Như hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ, hai tác phẩm đã khắc sâu được cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược hết sức ác liệt và gay go. Qua đó tác giả cũng ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ, là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh. Với giọng văn ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời kỳ chống Mĩ, hai tác phẩm đều được tác giả làm hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước. Qua đó cũng thấy rằng, cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng như Tnú và Việt mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
 

 

Đề 12: Ý nghĩa giọng hò chú Năm

 

Chú Năm đã lớn tuổi, giọng hò không hay “đục và tức như gà gáy.

Như chú rất hay hò. Việc hò này như một nét đẹp văn hóa của người dân Nam Bộ khi muốn gửi gắn tâm sự. Mỗi khi chú Năm hò, hay đặt tay lên vai Việt, mắt nhìn thẳng vào mắt Việt. Những giá trị đạo lí, tình nghĩa, thuỷ chung. Từng câu hò đã thấm vào tâm hồn hai chị em Chiến và Việt, là giá trị tinh thần hun đúc tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước cho chị em, đồng thời cũng là nguồn cổ vũ hai chị em trong chiến đấu.

 

Đề 13: Ý nghĩa nhan đề “Những đứa con trong gia đình”

 

Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề tác phẩm không chỉ có giá trị thông báo về vị trí thế hệ của hai nhân vật Chiến và Việt mà còn gợi nhiều ý nghĩa:

+Đó là những con người được nuôi dưỡng và trưởng thành trong gia đình có truyền thống tốt đẹp, đáng tự hào.

+Họ là những người con đã tiếp nối xứng đáng truyền thống cách mạng của gia đình.

-Chủ đề: Truyện về những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
 

 

Đề 14: Ý nghĩa chi tiết khiêng bàn thơ má

 

-Không khí thiêng liêng đã biến Việt trở thành người lớn: “lần đầu tiên Việt thấy rõ lòng mình”, “Việt thấy thương chị lạ”, cảm thấy được trách nhiệm lớn lao của mình vì mối thù với thằng Mỹ “đang đè nặng trên vai”.
-Bàn thờ má còn là chứng tích tội ác do bọn giặc Mỹ tàn ác để lại, là động lực thúc đẩy chị em Việt ra đi đánh giặc để trả thù nhà, đền nợ nước.

-Hình ảnh còn có ý nghiã tượng trưng, thể hiện sự trưởng thành của hai chị em là có thể gánh vác việc gia đình và viết tiếp khúc sông của mình trong dòng sông truyền thống gia đình. Hơn thế nữa, thế hệ sau cứng cáp, trưỏng thành hơn và có thể đi xa hơn.

-Hình ảnh này còn là hình ảnh lãng mạn ở tạm bên nhà chú” và đến khi “nước nhà độc lập con lại đưa má về”àđây là giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ác liệt, nhưng Nguyễn Thi vẫn mang một niềm tin vào tương lai tất thắng.
 

 

Đề 15: Ý nghĩa cuốn sổ gia đình

 

Chú Năm viết chữ không đẹp vì mới thoát nạn mù chữ. Nhưng với cuốn sổ gia đình, chú không ghi qua loa mà rất cụ thể:
“thím Năm chèo xuồng đi rọc lá chuối bị đại bác bắn bể xuồng, khi chết còn mặc cái quần mới, tropng túi có hai đồng bạc”, bà nội bị lính Tổng phòng bắt, vết đạn bắn thằng giặc trên sông Định Thủy của Chiến và Việt,…Cuốn sổ gia đình ấy đã ghi dấu lại truyền thống yêu nước của gia đình qua các thế hệ. Nó là niềm tự hào về truyền thống kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm của một gia đình Nam Bộ. Nhưng bên cạnh đó, nó còn là bản án ghi lại rành rành tội ác của kẻ thù. Để những thế hệ đi sau mỗi khi đọc lại vẫn còn cảm nhận được máu và nước mắt đang nống hổi trên từng trang giấy mà khắc sâu lòng căm thù và quyết tâm trả thù.
 

Đề 16: Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong “Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi

 

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương
Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.
Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.
Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.
Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.
Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.
Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.
Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.
Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
 

Đề 17: Vẻ đẹp người Nam bộ trong kháng chiến chống Mĩ qua tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”

 

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng
Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.

Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.

Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.

Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Néy đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đó còn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.

Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vuợt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.

Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.

Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.

Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.

Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.

Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
 

Đề 18: Phân tích điểm giống và khác nhau hai chị em Việt – Chiến trong truyện “Những đứa con trong gia đình”

 

1.Mở bài- Giới thiệu khái quát về tác phẩm: “Những đứa con trong gia đình” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Thi. Thành công của truyện chủ yếu là nghệ thuật xây dưng tình cách nhân vật. Trong đó tác giả tập trung phần lớn ở hai nhân vật Việt và Chiến.

Hai nhân vật có rất nhiều nết giống nhau vì họ la hai chị em ruột. Tuy nhiên ở mỗi nhân vật có nét riêng của mỗi người.

2.Thân bài

a. Những nét tính cách chung

- Thương cha thương mẹ, căm thù giặc sâu sắc, cùng một ước nguyện được cầm súng đánh giặc trả thù cho ba, má. Tình cảm này thể hiện rõ nhất trong đêm hai chị em giành nhau ghi tên tòng quân, cùng khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm “ đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về” “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy đươc, vì nó đang đè nặng ở trên vai”.

- Hai chị em đều là những chiến sĩ dũng cảm, gan góc và từng lập được nhiều chiến công; bắn tàu chiến giặc, Chiến là tiểu đội trưởng của đội nữ địa phương. Việt thì tiêu diệt được một xe tăng địch trong một trận đánh giáp lá cà. Vì cha mẹ là dũng sĩ nên dường như họ sinh ra là để cầm súng đánh giặc.

- Hai chị em còn rất trẻ , hơn nhau 1 tuổi (chị 18, em 17). Vì thế ở hai nhân vật này có những nét rất trẻ con: chẳng hạn, tuy thương yêu nhau nhưng lại hay giành nhau, giành phần bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến Mĩ, giành nhau ghi tên tòng quân đánh giặc…

b. Những nét riêng giữa hai chị em:

- Tài nghệ của Nguyễn Thi trong xây dựng nhân vật là đã tạo ra những nét riêng của hai nhân vật này. Mỗi người một vẻ, không lẫn với nhau được. Những nét tính cách của Việt và Chiến xét đến cùng là do một người là gái, một ngưòi là trai, một ngưòi là chị, một người là em.

- Nhân vật Chiến có cái gan góc riêng của phụ nữ. Việt có thể dũng cảm trong chiến đấu nhưng không thể có cái gan kiên trì ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình của chú Năm như Chiến. Việt hiếu động, chỉ thích bắt ếch, câu cá, bắn chim, lúc nào cũng có cái ná thun trong mình. Là chị nên Chiến tuy chưa hết tính trẻ con , có lúc cũng tranh với em, nhưng cũng có lúc lại biết nhường nhịn em, như khi tranh công bắt ếch. Tuy nhiên khi ghi tên tòng quân thì Chiến nhất định không nhường em.

Như vậy ở Chiến có sự hoà lẫn giữa tính trẻ con và niềm khát khao đánh giặc, có tấm lòng thương em của một người chị biết suy nghĩ chính chắn. Không chịu nhường em ở những nơi đạn bom nguy hiểm. Chiến là cô gái đảm đang tháo vát, sớm biết lo nghĩ. Vả lại cha mẹ mất cả, là ngưòi chị lớn, phải sớm làm chủ gia đình. Vì thế ở Chiến có cái gì đó tỏ ra khôn ngoan, già dặn trước tuổi. Điều này chính Việt đã nhận xét về chị trong cái đêm trước khi tòng quân “Chà, chị Chiến bữa nay nói in như má vậy!”. Bởi vì đây là giờ phút Chiến phải đứng ra thu xếp việc nhà chu đáo trước khi lên đường. Và chú Năm cũng khen khi Chiến trình bày ý kiến của mình “Khôn! việc nhà nó thu don được gọn thì việc nước nó được mở rộng…”. Ngoài ra Chiến là cô gái mới lớn nên bắt đầu thích soi gương, thích làm duyên làm dáng, đi đánh giặc mà vẫn có cái kiềng trong túi…

- Còn ở Việt thì trẻ con hơn, hiếu thắng. Vả lại là em nên không cần phải nhường nhịn ai. Công việc trong gia đình Việt đều phó mặc tất cả cho chị Chiến, nghe chị bàn việc gia đình thì cứ ừ ào cho qua, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” “rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Việt còn trẻ con quá nên đã đi bộ đội rồi mà vẫn dắt theo ná thun, yêu quý chị mà cứ giữ kín vì sợ mất chị, đánh giặc không sợ chết mà lại sợ ma, khi gặp lại đồng đội thì vừa khóc vừa cười…Tuy nhiên khi xung trận thì Việt là một chiến sĩ dũng cảm, tinh thần cảnh giác và chiến đấu rất cao.

3.Kết bài

- Tóm lại hai nhân vật Việt và Chiến đúng là có nhiều đức tính giống nhau, nhưng đồng thời lại là hai cá tính khác nhau. Tuy thế cả hai đều rất đáng yêu, dễ mến. Hai nhân vật để lại ấn tượng đậm nét trong lòng ngưòi đọc.

- Nhận xét: Nguyễn Thi rất tinh tế, sắc sảo trong bút pháp xây dựng nhân vật, tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn ngưòi đọc.
 

Đề 19: Anh/chị có cho rằng trong thiên truyện của Nguyễn Thi quả đã có 1 dòng sông truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến lớp người đi sau: chị em Chiến và Việt

 

Dòng sông cùa “Những đứa con trong gia đình” không chỉ là dòng sông “đẹp, lắm nước ngọt, nhiều phù sa” và sinh ra “vườn ruộng mát mẻ” mà còn là dòng sông của truyền thống gia đình liên tục chảy từ lớp người đi trước. Cũng như trăm con sông khác, con sông này cũng chảy ra biển, “mà biển thì rộng lắm, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.
Trong thiên truyện của mình, Nguyễn Thi đã xây dựng nên một dòng sông chảy dài xuyên suốt. Đó là dòng sông của gia đình chị em Chiến Việt mà mỗi thế hệ là một “khúc” của dòng sông để rồi tất cả đều được ghi vào đó. “Những đứa con trong gia đình” là sự tiếp nối huyết thống từ bao đời, nhưng không dừng lại ở đây, mỗi thế hệ còn là cầu nối của truyền thồng vĩ đại – truyền thống chống giặc ngoại xâm từ tổ tiên, ông cha và cho đến đời của chị em Chiến Việt. Con sông ấy cứ chảy qua bao thế hệ mà chính chú Năm lại là kết tinh của “con sông truyền thống”. Từ lâu rồi, chú Năm gắn bó với vùng sông nước Bến Tre, mưu sinh từ những con sông, con nước. Nhưng bật lên trong con người chú là một tâm hồn nhơn nghĩa, đạo lí. Cái đạo lí của một “ông già Nam Bộ” chất phác, rạch ròi nhưng rất cảm động được thể hiện qua những ước vọng của chú: “…rán cho mau lớn. Chừng nào bay trọng trọng rồi tao giao cuốn sổ cho chị em bay”. Ước mong của chú là vậy, mong cho chị em Chiến Việt mau lớn để giao lại “cuốn sổ gia đình” cũng chính là cả con sông truyền thống. Ông già Nam bộ này còn răn đe: “… thù cha thù mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu…”. Lời răn yêu ấy cũng chính là tâm nguyện của chú gửi đến “khúc” hạ lưu của dòng sông với long yêu thương vô bờ. Chú Năm như một cuốn gia phả sống, ghi chép tất cả những câu chuyện của gia đình với những nét chữ “lọng cọng”. Những sự việc trong “cuốn sổ – truyền thống” chính là những nỗi đau và niềm tự hào của gia đình. Thật cảm động khi đọc những câu chuyện: “Thím Năm bơi xuồng rọc lá chuối bị cano Mỏ cày bắn bể xuồng… Ông nội nghe súng nổ, sợ bò đứt day ra năm giàm bò, bị lính Tổng phòng […] bắn giữa bụng… tía Việt bị lính Tây bout Kinh Ngang bắt chặt đầu…”. Những câu chuyện của gia đình xét cho cùng là bản tố cáo tội ác của bọn giặc Tây mà Nguyễn Thi gián tiếp viết ra.
Song song với hình ảnh chú Năm – ông già Nam Bộ với tính tình chấc phát, thiệt thà, luôn
sống và hướng đến truyền thống, ta lại bắt gặp hình ảnh của mẹ Việt, người mẹ Nam Bộ và rất Nam Bộ. Mẹ Việt cũng là một khúc sông chảy cùng vị trí với “khúc-sông-chú-Năm” trong con sông lớn của gia đình. Mẹ Việt hiện lên là người phụ nữ chịu thương, chịu khó sực mùi “lúa gạo và mùi mồ hôi” đến nỗi “lưng áo bà ba đẫm mồ hôi và đen lại”. Dường như mẹ Việt sinh ra là để nuôi con, để đánh giặc. Bản tính của người phụ nữ Nam Bộ đôi khi cọc cằn nhưng hiền dịu, gan lì với giặc nhưng lại hết mực chiều chuộng, yêu thương con cái của mình. Mẹ Việt còn “thừa hưởng” cái gọi là “dạn” từ ba Việt nữa. Chồng bị chặt đầu, mẹ Việt cắp rổ đi đòi, tay thì bế thằng Út và theo sau là lũ con nhỏ và “mỗi lần địch bắn đùng đùng trên đầu… lòng dạ đâu còn rảnh mà để sợ, mà khóc, chỉ thương con thôi”. Mẹ Việt yêu thương con hết mực, luôn chăm chút từng miếng ăn cho con cái đến cả những cách con làm cứ như phù sa sông bồi đắp vào bãi ngày này qua ngày nọ, năm này qua tháng nọ vậy. Với hình ảnh của mẹ Việt, ta dễ dàng liên tưởng đến nét kiên cường của chị Út Tịch (người mẹ cầm súng), tình yêu thương chồng con của chị Dậu (tắt đèn) và cả sự đấu tranh kiên cường, cứng cõi của Chị Sứ (hòn đất),… nói cách khác, mẹ Việt là con sông phản chiếu của những người phụ nữ thời chiến: “kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Quả là khúc sông thật cao cả và chảy dài mạnh mẽ…
Nếu so với “khúc sông mẹ- chú Năm”, thì Chiến và Việt là hai khúc sông sau mà khúc sông sau thì lúc nào cũng chảy xa hơn khúc sông trước, cứ như vậy, nối tiếp nhau mà chảy. Ở chị Chiến có cái gì “in như mẹ vậy” từ vẻ bề ngoài chắc nịch đến cả cái gáy đỏ, bắp tay to khỏe nửa,… và còn đến cả lời nói, cử chỉ và sự suy tính ra dáng của một người trưởng thành, chu toàn, êm đẹp… bên cạnh đó, “khúc sông” Việt tuy có nhỏ hơn “khúc sông Chiến”, vẫn còn nét lộc ngộc, vô tư của một thanh niên mới lớn, nhưng trong Việt đã chứa đựng chất anh hùng biểu hiện ở những suy nghĩ táo bạo của mình. Lúc bị thương nặng, Việt vẫn cố gắng lên nòng súng sẵn sàng chiến đấu, cả những suy nghĩ của Việt, ta lại thấy một người lính rất chững chạc: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao”. Quả thật, khúc sông “Chiến-Việt” đã chảy xa hơn đại diện cho sức trẻ tiến công. Trong khi mẹ Việt mang nỗi đau mất chồng và chưa thể cầm súng để trà thù thì chiến và Việt lại cầm súng vì nỗi đau mất cha mất mẹ quyết tòng quân đánh giặc. Có thể nói, khúc sông Chiến-Việt là khúc sông nhận lưu lượng nhiều hơn, chảy mạnh hơn và xa hơn những khúc sông trước đó vì 2 khúc sông này là cả hy vọng của một gia đình truyền thống bao thế hệ.
Những khúc sông của gia đình cứ như thế nối tiếp nhau chảy, chảy hoài, chảy mãi như máu chảy trong người vậy. Rồi con sông của gia đình lại chảy về biển cũng như trăm con sông khác. Nguyễn Thi đã buộc ta phải liên tưởng đến biển đến đại dương bao la rộng lớn. Biển ấy là biển của cách mạng cả nước mênh mông, rộng lớn và vĩnh cữu. Còn đại dương ấy chính là đại dương cách mạng của những quốc gia đang bị xâm lược trên thế giới. Cũng như dòng chảy của máu trong cơ thể được lưu thông bằng tim, thì dòng chảy của con sông cách mạng được khơi nguồn và duy trì bằng những con tim cách mạng “còn nóng hôi hổi” chứa những sự mất mát đau thương nhưng lại rạng ngời niềm hy vọng.
 

Đề 20: Phân tích nhân vật Việt và Chiến trong “Những đứa con trong gia đình”

 

Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng.

Tác phẩm được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng. Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều. Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai. Chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quí của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước, căm thù giặc, giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thời đại hào hùng và giá trị nhân bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những nhân vật trong gia đình được giới thiệu gắn với hình ảnh thân thương của quê hương và những kỷ niệm cụ thể thời thơ ấu dữ dội của anh tân binh Việt. Chiến đấu giữa bầy giặc Mỹ, bị thương, lạc đồng đội, người chiến sĩ ấy giữa cơn mê tỉnh chập chờn đã nhớ về những hình ảnh thân thương nhất từ thời ấu thơ. Dường như đó chính là nguồn sức mạnh giúp anh vượt qua cái chết tìm về sự sống, tìm về đồng đội. Những con người trong gia đình Việt gắn với hồi ức thiêng liêng và cảm động làm sống dậy cả một quá khứ yêu thương và căm thù: chị Chiến, má, chú Năm. Hiểu theo một nghĩa rộng, đó cũng là những đứa con trong gia đình lớn: cách mạng.
Tất cả những con người ấy cùng giống nhau ở lòng căm thù giặc sâu sắc, vì những tội ác mà chúng đã gây ra với người thân trong gia đình. Gắn bó với mảnh đất quê hương, những con người ấy còn giàu tình nghĩa, trung thành với cách mạng bởi cách mạng đã đem lại cho họ sự đổi đời thật sự. Dường như anh chiến sĩ Việt đã thừa hưởng được từ thế hệ đi trước, chú Năm và má, hành động dũng cảm gan góc và lòng say mê khao khát được đánh giặc. Trong các nhân vật được tái hiện, chú Năm và má được khắc hoạ với những nét riêng độc đáo.

Chú Năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phác, giàu cảm xúc mơ mộng nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và với tư cách chứng nhân của tội ác của thằng Tây, thằng Mỹ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước.Chất Nam bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay kể sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện thể nào cũng hò lên mấy câu. Nét đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầy đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ, như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đoócòn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm, nhắn nhủ cho hai chị em Chiến và Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.

Má của Chiến và Việt là hội tụ phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Nam bộ anh hùng trong kháng chiến. Những ấn tượng tác giả để lại đậm nét trong người đọc về nhân vật này là về tính gan góc từ khi còn là con gái. Người đàn bà hết lòng thương yêu chồng con ấy đã phải trải qua thời khắc dữ dội khi kẻ thù chặt đầu chồng, nhưng má đã vượt lên đau thương để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Hình ảnh người mẹ ấy đối mặt với họng súng quân thù như gà mẹ xoè cánh che chở đàn con, khiến kẻ thù phải run sợ trước đôi mắt của người vượt sông vượt biển. Nuôi con và cả con của đồng chí, má là hiện thân của vẻ đẹp gan góc được tôi luyện trong đấu tranh, với đức hy sinh vô bờ bến lặng thầm, tảo tần lam lũ, đau thương chôn kín trong giọt nước mắt lặng lẽ kín đáo. Trong tâm hồn người phụ nữ ấy là tình yêu lớn lao, ý chí bất khuất kiên cường và cả tinh thần dám hy sinh, đổi mạng sống vì cách mạng.

Hai chị em Chiến và Việt đã được thừa hưởng tất cả những vẻ đẹp của thế hệ đi trước, tính cách được tạo nên từ truyền thống gia đình, từ hoàn cảnh đặc trưng: thương cha má, cùng chung lo toan công việc cách mạng, giàu tình nghĩa với quê hương. Không phải ngẫu nhiên hai chị em đã cùng xung phong tòng quân một ngày, để trả mối thù cha bị chặt đầu, má bị trái cà nông quân thù sát hại. Trong hoàn cảnh khốc liệt của cuộc chiến đấu, biết căm thù cũng là một phẩm chất cần thiết, bởi căm thù giặc tàn phá quê hương, sát hại người thân cũng là một biểu hiện sâu sắc của tình yêu với quê hương, gia đình! Bởi vậy đêm tòng quân không chỉ có hai chị em tranh nhau ghi tên mà thanh niên trong xã ghi tên tòng quân cũng rất đông. Hành động của hai chị em có sự đồng tình của chú Năm, như một điểm nhấn hành động này hoàn toàn không phải là tự phát mà gắn với ý thức giác ngộ của tuổi trẻ trên quê hương đau thương và anh dũng.

Kí ức của Việt gắn với hình ảnh của chị Chiến, với kỷ niệm tuổi thơ trong trẻo của hai chị em. Người con gái ấy có cá tính riêng, có những nét giống má, gan góc, chăm chỉ, đảm đang tháo vát. Hai chị em kề tuổi nên có lúc còn rất trẻ con, nhưng bao giờ trong những lần cãi vã thì chị cũng nhường em. Đến khi tham gia công việc cách mạng, Chiến tỏ ra chín chắn hơn Việt. Những mất mát đau thương đã khiến cô gái ấy sớm trưởng thành, nhưng không hề làm chai sạn tâm hồn giàu nữ tính. Lúc nào Chiến cũng có cái gương nhỏ, như những người con gái mới lớn nào cũng thích làm duyên. Câu chuyện của hai chị em trước đêm tòng quân đã chứng tỏ khả năng quán xuyến, thay thế vai trò của mẹ để chăm em, khiến cho bản thân cậu em thân thiết phải ngạc nhiên vì chứng kiến một chị Chiến giống in như má, răm rắp nghe theo sự cắt đặt của chị.

Một trong những tình tiết truyện tạo được xúc động mạnh cho người đọc là hình ảnh hai chị em trước đêm tòng quân khiêng bàn thờ má qua gửi chú Năm. Hai chị em đã làm cho người chú phải ngạc nhiên vì sự trưởng thành trước tuổi. Đó là chi tiết cho thấy những đứa con trong gia đình cách mạng này đã ý thức rõ chỉ có lên đường diệt giặc mới trả được mối thù giặc Mỹ đè nặng hai vai. Việc nhà việc nước vẹn toàn, lời động viên của chú Năm dành cho hai chị em đã thể hiện niềm tin tưởng vào thế hệ trẻ thời chống Mỹ.

Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng, lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ. Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí, quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn bó với người thân và sau này là tình cảm chan hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.

Tác phẩm thành công khi đã đem lại cho người đọc sự hình dung về mảnh đất Nam Bộ anh dũng và đau thương trong những ngày kháng chiến chống Mỹ. Đạc biệt, bằng sự am hiểu sâu sắc bản chất của người dân Nam Bộ yêu nước, tác giả đã dựng nên những con người vừa bình thường giản dị nhưng lại có vẻ đẹp, tầm vóc phi thường của con người thời đại chống Mỹ cứu nước. Giọng kể chuyện giản dị, xây dựng đối thoại tự nhiên và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc đã để lại ấn tượng khó quên về những đứa con trong gia đình cách mạng. Đồng thời còn phát hiện sâu sắc về sự trưởng thành của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến đấu. Vẻ đẹp ấy kết tinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam, một phẩm chất cao quí còn để lại những tấm gương cho thế hệ sau noi theo.
 

Đề 21: Phân tích những giá trị hiện thực của “Những đứa con trong gia đình”

 

Những đứa con trong gia đình- Câu chuyện giàu chất hiện thực về những đứa con trưởng thành trong thử thách khốc liệt của chiến tranh
Nguyễn Thi là một nhà văn-chiến sĩ mà cuộc đời và sự nghiệp sáng tác đã để lại nhiều bài học lớn cho cả một thế hệ nhà văn thời chống Mĩ. Ông đã hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Trong di sản viết về chiến tranh của ông, có tác phẩm đã hoàn chỉnh, có tác phẩm mới ở dạng phác thảo nhưng tất thảy đều ngồn ngộn chất sống và giàu tính thẩm mĩ chứng tỏ tác giả của nó là một tài năng văn học lớn.

Từng sống ở Nam Bộ trước cách mạng và sau này lại tham gia chiến đấu trên chiến trường ấy, Nguyễn Thi rất am hiểu con người và cảnh vật nơi này. Có thể nói ông là nhà văn của người nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Ông đã trút tâm huyết xây dựng họ thành những nhân vật văn học đáng nhớ đầy cá tính, có lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, sống bộc trực, hồn nhiên, giàu tình nghĩa.

Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi rút từ tập Truyện và kí xuất bản năm 1978. Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân một lòng một dạ đi theo cách mạng và có những mối thù riêng với quân giặc. Chiến và Việt – hai chị em đồng thời là hai nhân vật chính của tác phẩm không còn cha mẹ. Cha bị địch giết hồi chín năm (kháng chiến chống Pháp), còn mẹ thì chết vì trúng đạn đại bác Mĩ. Họ lớn lên trong sự dìu dắt, đùm bọc của ông Năm (người chú ruột) và sau này là của đoàn thể, đồng đội (một gia đình mới thân thiết của hai chị em). Tuy nói chuyện một gia đình nhưng tác phẩm của Nguyễn Thi có khả năng ôm trùm hiện thực rộng lớn. Số phận của mấy chị em ở đây cũng như cảnh ngộ gia đình họ không phải chỉ có Ý nghĩa cá biệt. Có biết bao người, bao gia đình cũng phải gánh chịu những mất mát và đã vượt lên như thế trong cuộc chiến tranh khốc liệt này. Hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới mấy lần trong truyện có ‎ nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta Ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình để đề cập đến những vấn đề khái quát hơn. Lời của chú Năm trong truyện đã nói lên điều đó: “Chú thường ví chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó. Chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, cũng lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó. Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, chị em Việt lớn lên rồi sẽ biết, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài nước ta”. Thông thường, sự kháo quát nghệ thuật của Nguyễn Thi là như vậy. Nó luôn tự nhiên như đời sống do bắt mạch thực sự được vào cuộc sống.

Trên một Ý nghĩa khác, hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Việt-Chiến, từ chuyện người nào bị giặc giết chết vào ngày nào đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biết, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thủy. Cuốn sổ- ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có Ý thức xây dựng cho thế hệ con cháu. Chú nói: “Chừng nào bây trọng trọng, tao giao cuốn sổ cho chị em bây”. Câu nói ấy cũng rất mực tự nhiên mà chứa đầy Ý nghĩa. Chính thế hệ mới sẽ là người viết tiếp những trang mới, vẻ vang cho truyền thống. Không thể nói mọi chiến công mà Chiến, Việt lập được lại không liên quan đến cuốn sổ gia đình này. Kể lại sự việc nhưng không bao giờ quên khám phá chiều sâu của nó chính là thuộc tính bản chất của ngòi bút Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi rất có biệt tài dựng người, dựng cảnh. Vốn sống của ông phong phú khiến cho các chi tiết mà ông lẩy ra bao giờ cũng như giẫy trên trang sách, rất sinh động. Nhiều nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện nhưng đã kịp để lại một ấn tượng khó quên, cả về hành động lẫn ngôn ngữ. Chú Năm của Chiến, Việt thật dễ nhớ với “giọng hò đã đục và tức như tiếng gà gáy”(“Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện, thế nào chú cũng hò lên mấy câu”). Giọng hò của người đàn ông trung niên này tuy không hay nhưng chứa đựng mọt cái gì đó thật tha thiết khiến cho chị em Chiến, Việt tuy rất thấy buồn cười nhưng vẫn rất cảm động. Theo như lời kể trong tác phẩm, ông ít nói, nhưng những câu nói của ông được hai chị em nhân vật chính khắc ghi trong tâm khảm. Nó tương tự như những châm ngôn kết tinh của cả một đời từng trải sông nước, lăn lộn với ruộng vườn và chung thủy một dạ với cách mạng.

Bên cạnh nhân vật chú Năm, hình ảnh người má của hai chị em Chiến, Việt cũng hiện lên với những nét chạm khắc rạch ròi. Đó là người đàn bà xốc vác, gan dạ, giỏi thu xếp cả việc chung lẫn việc riêng. Nguyễn Thi đã chọn được nhiều chi tiết thật tài tình để xây dựng chân dung con người ấy. Nào là chuyện bà đi đấu tranh về bị cà nông giặc bắn đuổi theo, một trái rơi bịch trước mặt, không nổ, “bà đến dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về”; nào là chuyện bà bế con, dắt con đi đòi đầu chồng từ ấp trong tới ấp ngoài, vượt qua sông về tới quận; nào là chuyện bà tần tảo sớm hôm làm lụng nuôi con, miệng nói, tay làm, chưa dứt câu dặn con mà chân đã “đẩy xuồng ra tuốt giữa sông”… Đặc biệt, chi tiết bà đối mặt với quân thù hai bàn tay to bản “phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân” hoặc “dùa đàn con lại đằng sau tránh đạn” đã cho ta hình dung đặc biệt rõ nét hình ảnh một người mẹ nơi Thành đồng Tổ quốc những năm đánh Mĩ.

Hai nhân vật được khắc họa rõ nét trong tác phẩm là Chiến và Việt. Chiến là chị. Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào”. Ngay cả Việt cũng nhận thấy thế. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho đến lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính han góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái thì ra đi tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đọi, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ chu đáo, “nói nghe thiệt gọn” khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói: “Khôn! Việc nhà nó thu gọn đươc thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất nước.

Khác với chị Chiến đã có dáng dấp của một người lớn thực thụ dù đôi lúc còn tranh giành với em, Việt cong giữ nguyên tính chất của một cậu bé. “Cậu Tư” này trong gia đình có điệu cười “lỏn lẻn” rất dễ thương. Cậu ta thường ngày vẫn hay tranh phần hơn với chị, từ chuyện bắt ếch đến chuyện đòi đi bộ đội trước chị. Cậu còn vô tâm vô tính, phó mặc chuyện nhà cho chị “Tôi nói chị tính sao cứ tính mà”. Trong khi chị bàn những việc phải làm ngày mai, Việt vẫn đùa nghịch “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” và thú vị quan sát điệu bộ cử chỉ, cách nói năng “in hệt má” của chị. Vào bộ đội rồi, cậu ta “giấu chị như giấu của riêng vậy” vì sợ mất chị trước những lời gạ gẫm đùa tếu của anh em. Trong hành trang người lính của mình, ngoài cái võng, bộ quân phục, Việt còn mang theo cái ná thun-một vật bất lí thân từng gắn bó với Việt từ ngày cậu còn “để đầu trần, mình mẩy tèm lem sình đất từ chỗ móc mương lên, lội tắt trong vườn, đi tìm chim”. Tuy còn rất trẻ con như thế, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm không thua kém ai. Việt đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một chiếc xe bọc thép của địch. Bị thương, Việt quyết bò đi tìm đồng đội. Nghe tiếng xe, pháo của giặc, Việt nằm chờ với tâm niệm “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này chỉ còn có mình tao. Mày có bắn táo thì tao cũng bắn dược mày. Nghe súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Có bao nhiêu là sự coi thường, khinh bỉ kẻ thù thể hiện qua lời độc thoại ấy. Quả thực, Việt đã là một người lính chững chạc trong khi còn mang đayaf đủ nét thơ ngây, trong sáng, đáng yêu của một cậu bé vừa đến tuổi thành niên.

Nhìn chung, trong khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Thi rất quan tâm đến việc cá thể hóa. Nhân vật nào cũng có những nét riêng, độc đáo, hiện lên mồn một trước mắt độc giả. Chú Năm nói khác mấ Việt, và Việt nói khác chị Chiến. Lời nói của ai thể hiện rõ tính cách người đó. Nhưng mặt khác, nhà văn cũng có Ý thức nhấn mạnh điểm giống nhau giữa họ. Chẳng thế mà ông nhiều lần qua lời chú Năm, qua lời Việt so sánh Chiến với người má của cô, và để người má ấy nói về Việt: “Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi!”. Nói đến điểm giống nhau ở đây là nói đến nét bền vững trong truyền thống một gia đình giàu tinh thần cách mạng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, sống rất mực tình nghĩa thủy chung. Đây chính là điểm nút sẽ giúp ta lí giải được sức mạnh tinh thần giúp các nhân vật vượt qua được thử thách lớn lao, gay gắt đến như vậy. Mở rộng ra, đấy cũng chính là điểm nút khiến mọi chi tiết , sự việc được miêu tả trong tác phẩm quy rụ lại thống nhất ở tinh thần chung là khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của người dân Nam Bộ trong chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Nhiều câu nói thốt ra từ miệng chú Năm hay từ miệng má Việt, vì vậy có tầm khái quát triết lí, mang âm vang triết lí của cả một dân tộc bất khuất, dù nó được biểu hiện ra trong một hình thức rất mực giản dị – giản dị đến bất ngờ như câu nói của má Việt: “Người chết có cái vui của người chết, nếu khong người ta sanh con ra làm gì?”. Ở đây, ta có thể nhận ra một đặc điểm trong sáng tác Nguyễn Thi: tính triết lí rất cao nhưng đấy là triết lí của chính cuộc đời- một cuộc đời được tái hiện sinh động qua những biểu hiện mang tính bản chất. Ta có thể chứng minh thêm cho điều vừa nói bằng chi tiết: hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến đứng ra giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước, chị Chiến khiêng lịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên, Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được vì nó đang đè nặng trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác”. Khó mà không dẫn hết ra đoạn văn đầy xúc động này. Nó đã nói lên hết sức cô đọng về cuộc chiến đấu của chúng ta: có yêu thương, có căm thù, có cái mất mát nhưng có cái vĩnh hằng, có cái quyết liệt nhưng cũng có sự thanh thản, có yếu tố hành động nhưng cũng có yếu tố tâm linh… Và mùi hoa cam, nó chỉ thoảng qua một lần mà thơm mãi. Trong văn Nguyễn Thi, mùi hương trữ tình này thường chỉ được dùng rất dè sẻn, nhưng chính vì vậy mà nó vô cùng quí, để lại trong lòng người đọc những cảm nghĩ sâu xa.

Một thành công nữa rất cơ bản của Nguyễn Thi trong Những đứa con trong gia đình là nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Ta đã thấy phần nào điều đó qua việc phân tích cái tài của ông khi lựa chọn các chi tiết đặc sắc làm nổi bật cá tính nhân vật ở trên. Cần đặc biệt lưu Ý rằng truyện ngắn này được tổ chức dựa trên dòng hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương trên trận địa. Miêu tả tâm lí của người tỉnh táo đã khó mà ở đây lại là tâm lí của người luôn nằm trong trạng thái giữa mê và tỉnh, hiển nhiên nhiệm vụ nghệ thuật đặt ra càng khó bội phần. Nhưng nhà văn đã thể hiện một cách xuất sắc trạng thái “chập chờn cơn tỉnh cơn mê” đó của nahan vật. Bốn lần Việt tỉnh dậy trrn trận địa, mỗi lần Việt nhớ gì, nghĩ gì đều được nhà văn miêu tả rất cụ thể, tinh tế và chính xác. Thông thường, mạch hồi tưởng của nhân vật trong bước khởi đầuphụ thuộc rất nhiều vào yếu tố dẫn dụ của ngoại cảnh. Tác giả hiểu điều đó rất rõ. Tâm lí con người tuy phức tạp nhưng vẫn diễn biến một cách lô gic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu dậy lên, Việt tự nhiên nhớ về những đêm đi soi ếch, nhớ “Khi đổ ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng sang”. Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò và cuốn sổ gia đình cùng Ý nghĩa của nó. Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu rừng nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun, rồi chiếc ná thun nhắc tới hành trang trong chiếc ba lô ngày nhập ngũ, ngày nhập ngũ là ngày má Việt vừa mất, thế là nỗi nhớ “chuyển vùng” sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong tiếng súng thôi thúc. Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên hệ tới Ý nghĩ thôi thúc ngày đi bộ đội, liên hệ tới chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang bàn thờ má đi gửi bên nhà chú… Nhìn chung, nhà văn nắm rất chắc quy luật diễn biến tâm lí con người. Ông đã khéo léo tạo cho tác phẩm một hình thức kết cấu độc đáo tương đồng với kết cấu của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sau vào đời sống tâm hồn của nhân vật.

Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần thuật đặc biệt phù hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về người khác, mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật. Điều đó thể hiện ngay ở cách xưng hô rất đỗi thân thương, gắn bó: “Việt” chứ không phải anh hay chú bé, “chị Chiến” chứ không phải cô, chị, “chú Năm” chứ không phải ông Năm, … Điều đó cũng thể hiện ở màu sắc địa phương của lời trần thuật: “Chú nói ít, nhưng đã nhậu vào ba hột là chú nói tới”, “Thím Năm vừa khóc vừa kể thôi là kể”, “hai bên giáp mặt, ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái “cóc”, rồi đi thẳng” … Thật khó kể hết được những ví dụ sinh động như thế. Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo ngôn ngữ Nam bộ. Cần phải thấy rằng, cách sử dụng ngôn ngữ của ông ở đây trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ở vùng đất ấy, sau nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, một thời…

Những đứa con trong gia đình thể hiện khá rõ tài năng của Nguyễn Thi trên nhiều mặt: khả năng khái quát cao, khả năng dựng cảnh, dựng người và mô tả tâm lí sâu sắc, khả năng vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ đầy linh hoạt, biến hóa và cả chất triết lí rất riêng toát lên từ chính hiện thực chứ không phải từ những lời trữ tình ngoại đề của tác giả. Tất nhiên, những phương diện tài năng ấy không biểu lộ riêng rẽ. Chúng hòa lẫn vào nhau hết sức tự nhiên đưa đến sức thuyết phục lớn cho tác phẩm, làm cho độc giả khi đọc tác phẩm không còn thấy đó là văn mà chỉ thấy đó là cuộc đời.
 

Đề 22: Phân tích truyện “Những đứa con trong gia đình” 2

 

Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ . Tác phẩm tiêu biểu của ông là Những đứa con trong gia đình . Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng.

Những đứa con trong gia dình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi viết ngay trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ quân giải phóng năm 1966. Nhân vật chính của truyện là Việt .Việt là một chiến sĩ giải phóng quân.Ông nội và bố Việt bị giặc giết hại,Mẹ Việt một mình nuôi con vất vả rồi cũng chết vì bom đạn.Gia đình chỉ còn lại Việt, chi Chiến, thằng Út em ,chú Năm,và một người chi nuôi đi lấy chồng xa.Truyền thống ấy được chú Năm ghi tất cả vào cuốn sổ gia đình.Việt và Chiến hăng hái đi tòng quân giết giặc,Trong một trận chiến đấu,Việt hạ được một chiếc xe bọc thép của địch nhưng lại lạc đồng đội và bị thương nặng ngất đi tỉnh lại nhiều lần.Mỗi lần tỉnh lại,dòng hồi ức lại đưa anh về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má,về chị Chiến,chú Năm,đồng đội và anh Tánh…Anh Tánh và đồng đội tìm được Việt, đưa về điều trị một bệnh viện và sức khoẻ Việt dần dần hồi phục.Chuyện được kể theo dòng hồi ức của Việt trong những lần ngất đi tỉnh lại ấy.

Đặc sắc của truyện là đã dựng nên được hình tượng những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, thuỷ chung, son sắt với cách mạng. Những con người này có những nét chung thống nhất, thể hiện rõ đặc điểm của nhân vật Nguyễn Thi. Đó là:Căm thù giặc sâu sắc ; Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc ; Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung son sắt vời quê hương và cách mạng. Tuy nhiên, trong cái dòng sông truyền thống của gia đình ấy, “mỗi người một khúc”, có nét tính cách riêng, không ai giống ai. Đó chính là điểm nói lên tài năng của Nguyễn Thi.

Trong dòng sông truyền thống gia đình này, chú Năm là khúc thượng nguồn, là nơi kết tinh đầy đủ hơn cả truyền thống của gia đình. Chú hay kể sự tích gia đình. Chú là tác giả cuốn sổ gia đình ghi chép tội ác của giặc và chiến công của các thành viên trong gia đình. Chú Năm là người lao động chất phác nhung giàu tình cảm. Tâm hồn chú Năm bay bổng, đạt dào cảm xúc khi cất lên tiếng hò. Những lúc đó, chú Năm như đặt cả trái tim mình vào trong câu hò, tiếng hát.

Cùng với chú Năm, má Việt cũng là một hiện thân của truyền thống. Đây là một hình tượng người phụ nữ mang đậm những nét tính cách của nhân vật Nguyễn Thi. Rất gan góc, căm thù giặc sâu sắc. Rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát. Cuộc đời lam lũ, vất vả chồng chất đau thương tang tóc, nhưng cắn răng nén chặt nỗi đau thương của mình để nuôi con, đánh giặc. Một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng; hiên ngang đối đáp vời kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đang nép đước chân”; mỗi lần bọn lính bắn doạ “mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”… Đó là hình ảnh của sự gan góc, chở che mang ý nghĩa biểu tượng về người phụ nữ ở một xứ sở như đất nước ta, cuộc sống thì lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng con người lại rất đỗi kiên cường, cao cả. Má Việt đã ngã xuống trong một cuộc đấu tranh nhưng trái cà-nông lép má nhặt đem về vẫn còn nóng hổi. Trong quan niệm của Nguyễn Thi, người mẹ ấy cái phần thác chỉ là thể phách còn linh hồn thì bất tử, sống mãi tròng những đứa con. Không phải ngẫu nhiên mà vào cái đêm sắp xa nhà đi chiến đấu, những đứa con đểu cảm nhận không phải ai khác mà chính là người mẹ đã hiện về.

Chiến có những nét giống mẹ: gan góc, đảm đang tháo vát. Nguyễn Thi có ý thức tô đậm nét kế thừa người mẹ nhân vật Chiến. Chiến là một tính cách đa dạng: vừa là một cô gái mới lớn, tính khi còn rất trẻ con, vừa là người chị biết nhường em,.,biết lo toan, đảm đang, tháo vát. So với người mẹ, Chiến không chỉ khác ở cái vẻ trẻ trung thích làm duyên làm dáng. Vận hội mới của cách mạng đã tạo điều kiện cho Chiến được trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lới thề như dao chém đá của mình: “Đã lăm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất” .

Trong tác phẩm, Việt là nhân vật xuất hiện nhiều lần nhất. Việt đã hiện lên cụ thể và sinh động trước mắt ta, vừa là cậu con trai mới lớn, vừa là một chiến sĩ gan góc, dũng cảm, kiên cường. Việt có cái nét riêng dễ mến của một cậu con trai lộc ngộc vô tư, tính anh còn rất trẻ con, rất ngây thơ, hiếu động.

Nếu Chiến luôn biết nhường nhịn em, thì trái lại, Việt lại hay tranh giành phần hơn với chị. Việt rất thích đi câu ca, bắn chim, và đến khi đi bộ đội vẫn còn đem theo cả cái súng cao su ở trong túi. Mọi công việc trong nhà, Việt đều phó thác cho chị. Đêm trước ngày lên đường, Chiến lo toan thu xếp chu đáo việc nhà, từ Út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má, bàn bạc với em một cách trang nghiêm còn Việt thì vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, vừa nghe vừa chụp một con đom đóm úp trong lòng tay rồi ngủ quên lúc nào không biết. Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con, “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị trước những lới tán tỉnh đùa tếu của anh em. Việt bị thương nằm lại ở chiến trường, đến khi gặp được đồng đội thì cũng giống hệt như thằng Út em ở nhà “khóc đó rồi cười đó”,…

Tuy vẫn còn có vẻ hồn nhiên, vô tư nhưng Việt cũng thật đường hoàng, chững chạc trong tư thế của người chiến sĩ trẻ dũng cảm, kiên cường. Dòng máu nóng chảy trong người Việt là dòng máu gia truyền của những con người gan góc, không bao giờ biết sợ trước sự bạo tàn. Cho nên, còn bé tí mà Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc đã giết hại cha mình. Việt đã nằng nặc đôi đi tòng quân để trả thù cho ba má. Khi xông trận, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm, đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch. Và đến khi bị trọng thương, một mình nằm giữa chiến trường, hai mắt không còn nhìn thấy gì, toàn thân đau điếng và rỏ máu, người thì khô khốc đi vì đói khát, Việt vẫn ớ trong tư thế chờ tiêu diệt giặc: “Tao sẽ chờ mày. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày.”. Có thể nói, hành động giết giặc để trà thù nhà, đền nợ nước đã trở thành một trong những thước đo quan trọng nhất về phẩm cách con người của nhân vật Nguyễn Thi.

Đọc Những bứa con trong gia đình, không ai có thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân… rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mời thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Trong cái không khí vô cùng thiêng liêng ấy, con người ta bỗng thấy mình thành một người khác, trưởng thành và khôn lớn hơn. Một người hôn nhiên, vô tư như Việt, vào chính chính giờ khắc này mới thấy “thương chị lạ”, mới thấy rõ lòng mình và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ như có hình, có khối, có trọng lượng cụ thể đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa biết bao ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương,…


Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện có bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí và tính cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.
 

Đề 23: Chủ nghĩ anh hùng qua  “Rừng xà nu” và “Những đứa con trong gia đình”

 

GIỚI THIỆU: Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã đạt nhiều thành tựu lớn, đặc biệt là trong mảng tác phẩm thể hiện phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
Hai truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm đã thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm.

II. NỘI DUNG:

1. Thế nào là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong văn học?

Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.

2. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện như thế nào trong hai truyện ngắn?

a. Về tác giả: Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.

b. Về hoàn cảnh sáng tác: Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.

c. Về hình tượng nhân vật của hai truyện ngắn:

¹Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược:

- Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc:

· Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết. (Rừng xà nu)
·Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình)

- Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc:

· Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay.

·Chiến và Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc.
à Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

- Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm:

·Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ.

· Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

à Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở từng nhân vật , mà còn thể hiện ở tập thể nhân vật anh hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà nu”; ba, má, chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân yêu. Tình yêu tổ quốc của họ bắt đầu từ những tình cảm bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn lao khiến kẻ thù phải run sợ.

“ Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

¹ Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt:

· Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “ Trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương”, nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình.

· Ông nội bị giặc giết, cha của Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị giết hại dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước.

Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.

3. Về chất sử thi trong hai truyện ngắn: Góp phần thể hiện thành công chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Nghệ thuật sử thi đòi hỏi tác phẩm tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước; phản ánh được chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng

- Đề tài: cuộc chiến đấu của dân tộc chống lại kẻ thù xâm lược.
- Chủ đề: ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
-Nhân vật chính: Là những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu hi sinh.
- Giọng văn: ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng.

Hai truyện ngắn là hai bản anh hùng ca thời đại đánh Mĩ.

III. KẾT LUẬN: Qua hai tác phẩm, ta thấy:

- Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”.

- Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
 

Đề 24: So sánh Tnú và Việt – Cụ Miết và Chú Năm

 

Câu 1: So sánh Việt và Tnú Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã đạt nhiều thành tựu lớn, đặc biệt là trong mảng tác phẩm thể hiện phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ

“ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm.

* Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.
Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.

* Qua hai thiên truyện, tác giả đã giúp người đọc khám phá, khâm phục, tự hào trước vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình thường, giản dị mà anh dũng, kiên cường và rất mực trung thành, thuỷ chung với cách mạng.
Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.

* Biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng ở Tnú và Việt:
- Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết. (Rừng xà nu). Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình).
- Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc: Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc.
à Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
- Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm
+ Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ.
+ Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
- Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

* Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”. Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
2. so sánh cụ mết và chú năm
a. Nhân vật cụ Mết
- Cụ Mết là một già làng quắc thước, “sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực”, râu “đã dài tới ngực và vẫn đen bóng”, mắt sáng và xếch ngược, ở trần, “ngực căng như một cây xà nu lớn”. Cách nói cũng khác lạ (nói như ra lệnh; không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!”, nhừng khi vừa ý cũng chỉ nói “Được”.
- Cụ tin tưởng mãnh liệt vào dân tộc mình, quê hương mình. Theo cụ, “không cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, và thứ gạo mà dân tộc Strá làm ra là thứ gạo ngon nhất rừng núi này.
- Cụ Mết chính là linh hồn của dân làng Xô Man. Cụ là người lưu giữ truyền thống của cộng đồng, dìu dắt các thế hệ nối tiếp nhau sống xứng đáng với truyền thống.
>>> Cụ Mết chính là nhân vật tượng trưng cho lịch sử, cho truyền thống hiên ngang, bất khuất, cho sức sống bền bỉ của dân làng Xô Man. Cụ Mết có những nét gần gũi với các nhân vật tù trưởng hung mạnh thể hiện khát vọng, hoài bão của cả cộng đồng trong một số sử thi Tây Nguyên. Viết về cụ Mết, tác giả đã phát huy cao độ sức mạnh bút pháp sử thi với cảm hứng lãng mạn lí tưởng hóa; mặc dù đây là một già làng có thật, người đã lập nhiều thành tích xuất sắc trong kháng chiến chống Pháp (có thể sánh ngang với anh hung Núp) ở làng Xóp Dùi, tỉnh Kon Tum.
b. Nhân vật chú Năm
- Chú năm thể hiện đầy đủ bản tính tự nhiên của người nông dân Nam bộ hiền lành chất phát, giàu cảm xức mơ mộng, nội tâm. Một người từng trải qua đắng cay của cuộc đời làm mướn trước cách mạng, để thành bản tính ít nói. Đau thương hằn sâu từ cuộc đời gian khổ và tư cách chứng nhân của tội ác của thắng Tây, thằng Mĩ và bọn tay sai phải chăng đã làm nên nét đa cảm trong gương mặt với đôi mắt lúc nào cũng mở to, mọng nước. Chất Nam Bộ rặt trong con người ông thể hiện qua việc hay sự tích cho con cháu, và kết thúc câu chuyện cũng hò lên mấy câu.
- Nét đặc biệt độc đáo ở người đàn ông này là có sổ ghi chép chuyện gia đình. Cuốn sổ ghi đầ đủ những chuyện thỏn mỏn của nhiều thế hệ , như minh chứng cho tấm lòng thuần hậu của ông. Đó còn là những trang ghi chép tội ác của kẻ thù gây ra, những chiến công của từng thành viên, như một biên niên sử. Bản thân ông cũng chính là một trang sử sống, khi gửi gắm. nhắn nhủ cho hai chị em Chiếnvà Việt: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó…”. Nhân vật đã thể hiện vẻ đẹp của tấm lòng sắt son, ý thức trách nhiệm của thế hệ đi trước.
- Truyện kể về những người con trong một gia đình nông dân Nam bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung sắc son với quê hương, cách mạng.
Câu nói của chú Năm: “chuyện gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chi cho mỗi đứa một khúc mà ghi vào đó” đã khái quát một trong những phương diện cơ bản nhất chủ đề của truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”.
Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi, qua hai nhân vật cụ Mết và chú Năm, đã khái quát, phân tích và lí giải sức mạnh, chiến công của con người miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước không chỉ ở tinh thần của thời dại mà còn là nguồn gốc sâu xa của truyền thống gia đình, quê hương. Chính sự hài hòa giữa tình cảm gia đình, quê hương với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình, quê hương với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn của con người Việt nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
 

Đề 25: Hãy phân tích hình tượng nhân vật Việt trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”

 

Nguyễn Thi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi thời kháng chiến chống Mỹ. Truyện của Nguyễn Thi đã phản ánh khá sinh động cuộc sống của nhân dân Miền Nam dưới sự đàn áp dã man của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; đồng thời cũng làm nổi bật vẻ đẹp của con người Miền Nam trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, giành độc lập, tự do về cho dân tộc. Trong những sáng tác của mình, Nguyễn Thi đi sâu khai thác đề tài: chủ nghĩa yêu nước anh hùng cách mạng của nhân dân Nam Bộ. Đó là những tập thể anh hùng được làm nên bởi mọi lứa tuổi. Trong đó, tầng lớp thiếu niên đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bức tranh hào hùng này như nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của ông.

Thật vậy, Việt là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Việt xuất thân trong một gia đình lớn, gia đình cách mạng. Những con người trong gia đình ấy đã gắn bó với nhau trong một mối tình ruột thịt, người nào cũng đáng yêu, đáng quý, người nào cũng có bản chất riêng, nhưng lại thống nhất với nhau về bản chất đó là: lòng căm thù giặc sâu sắc, hành động dũng cảm, gan góc trong chiến đấu, có niềm say mê và khao khát được đánh giặc, rất tình nghĩa, rất đỗi thủy chung với gia đình, với cách mạng và Tổ quốc. Hơn nữa, Việt xuất thân trong một gia đình mang nặng thù nhà, nợ nước. Ông nội của Việt bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng, bà nội bị lính quận Sơn hành hạ, đánh đập. Ba của Việt thì bị giặc chặt đầu, má Việt thì bị trái ca nông của Mỹ giết chết khi đi đấu tranh ở Mỏ Cày, thím Năm thì bị giặc hắn bể xuồng chết khi đi rọc lá chuối... những người thân trong gia đình của Việt lần lượt bị giặc sát hại. Những đau thương mất mát này đã sớm khơi dậy lòng căm thù giặc của Việt, đồng thời cũng sớm khơi dậy ý thức đấu tranh để trả thù nhà và góp phần vào việc đấu tranh giải phóng miền Nam của Việt.

Việt là một cậu con trai mới lớn, ngây thơ và hiếu động. Việt đã tiến xa hơn thế hệ của ông cha mình. Lúc nhỏ Việt đã rất gan , đúng như lời nhận xét của chú Năm: “Việt là một thằng nhỏ nhưng rất gan lì". Trước nỗi đau mất cha, cậu bé Việt không còn biết sợ hãi là gì, Việt đã đi theo má mà la “Trả đầu ba! Trả đầu ba!”, rồi khi thằng giặc liệng đầu ba vào ngực mẹ, làm máu me văng cùng đầu chị em Việt. “Đầu ba ở dưới không lượm” mà Việt “cứ nhè cái thằng liệng đầu mà đá”. Lòng căm thù giặc đã dậy lên trong lòng Việt. Càng lớn lên ý thức và hành động của Việt càng chín chắn hơn. Việt đã cùng chị đánh giặc trên sông Định Thủy, rồi lại cùng chị tranh nhau xin đi bộ đội. Ý thức đấu tranh quyết liệt đã thể hiện ở Việt ngay trong câu chuyện giữa hai chị em trong cái đêm cả hai đều được đi bộ đội. Khi Chiến nói với Việt: “Chú Năm nói mày với tao kỳ này là ra chân trời mặt biển, xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, thì Việt trả lời ngay với chị: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chứ chừng nào tôi mới bị".

Câu nói ấy của Việt đã thể hiện một thái độ khá dứt khoát, một ý chí quyết ra đi trả thù cho ba má Việt. Và ngay sau khi vào bộ đội, tân binh Việt đã lập nên chiến công trong một trận đánh quyết liệt với quân thù. Việt đã diệt được một xe đầy Mỹ và bắn nhào một xe tăng. Việt bị thương ở hai mắt, không còn thấy được gì cả. "Việt cảm thấy chân tay tê dại, khắp người nước hay máu không biết, chỗ ướt, chỗ sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ đã khô cứng", “người Việt khô khốc”, “chỗ nào đụng tới, ruồi cũng bay lên như vải trấu...”. Thế mà Việt vẫn quyết bò đi tìm đồng đội “Việt cho mũi lê đi trước, rồi tới hai cùi tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi cuối cùng. Cái nào không chịu đi thì bắt phải đi”. Trong cơn mê Việt nhớ lại những gì đã xảy ra trong gia đình mình. Việt nhớ má, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến... tỉnh ra Việt càng cảm thấy căm thù, càng có ý thức quyết tâm chiến đấu. Nghe tiếng máy bay và tiếng xe bọc thép của địch rú lên, Việt không hề run sợ mà trong tư thế sẵn sàng chiến đấu: Được, tao cứ nằm đây! Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này có còn mình tao cũng bắn được mày. Nghe súng nổ các anh sẽ tới đâm mày! Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Như vậy, là Việt đã đi xa hơn khúc sông truyền thống gia đình. Việt chủ động đi tìm giặc mà đánh. Việt chính là hình tượng nhân vật điển hình cho tầng lớp thanh niên thời đánh Mỹ tham gia vào cuộc kháng chiến với tất cả nhiệt huyết và niềm hăng say của tuổi trẻ, làm nên khúc sông truyền thống dào dạt hơn, rộng lớn hơn trước khi đổ vẻ biển cả.

Tuy chiến đấu rất dũng cảm nhưng ở Việt vẫn còn mang tính chất trẻ con: rất thương chị nhưng không biết lo toan cùng chị, chỉ biết đi chiến đấu. Đi chiến đấu mà Việt vẫn giắt sau lưng một chiếc ná thun. Khi bị thương Việt có thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng Việt cũng chưa hiểu cái chết là như thế nào: “Chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương. Hay chết là người thật biến lên trên nóc nhà, còn người giả thì nằm lại đó? Việt chưa bao giờ nghỉ tới cái chết, mà cũng chưa nghe ai nói rõ nó ra xao”. Và Việt không hề biết sợ chết, chỉ sợ là “không còn được ở chung với anh Tánh và cũng không được đi bộ đội nữa thì buồn lắm”. Những điều suy nghĩ của Việt thật ngây thơ và thật đáng yêu làm sao. Trước sau, trong hoàn cảnh nào Việt cũng nghĩ đến chiến đấu. Đó chính là bản chất vốn có của Việt và cũng chính là bản chất tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.

Tóm lại, trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình Nguyễn Thi đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật Việt - một nhân vật tiêu biểu cho tuổi trẻ miền Nam, tuổi trẻ của cả đất nước anh hùng. Sức mạnh của tuổi trẻ không gì ngăn nổi, hứa hẹn sẽ mở ra những khúc sông hào hùng hơn, vẻ vang hơn để đổ về biển lớn của cách mạng.
 

Đề 26: Có ý kiến cho rằng: “Nguyễn Thi là nhà văn của những người nông dân Nam Bộ” trong thời kì ác liệt của kháng chiến chống Mĩ. Qua truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”, hãy làm sáng tỏ nhận định trên

 

Qua sự hồi tưởng của nhân vật, gợi lại những câu chuyện đời thường của một gia đình có truyền thống đánh giặc. Nguyễn Thi muốn phản ánh và ngợi ca tinh thần bất khuất, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và đồng bào Nam Bộ nói riêng.

Chúng ta đã được học và đọc những tác phẩm cùa Nguyễn Thi viết về đề tài người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Trong các tác phẩm ấy, Nguyền Thi đã tỏ ra xứng đáng là nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Nhà văn thật sự gần gũi với người nông dân, đã phản ánh và thể hiện đúng phẩm chất, tính cách của người nông dân Nam Bộ trong thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình là một minh chứng cho nhận định đó.

Nguyễn Thi sinh ra ờ Hải Hậu (Nam Định), nhưng có mối duyên ràng buộc với vùng đất Nam Bộ và trở thành cây bút nói lên tiếng nói tâm tình của miền nắng gió. Sau những năm tháng lăn lộn ở Sài Gòn kiếm sống, được tập kết ra Bắc, rồi lại trở vào Nam sát cánh cùng nhân dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến. Nguyễn Thi đã có một vốn hiểu biết sâu sắc, có sự đồng cảm và gắn bó máu thịt với vùng đất sông nước này.

Truyện Những đứa con trong gia đình kể về sự tiếp nối của nhiều thế hệ khác nhau trong một đại gia dinh, cùng một chí nguyện đánh giặc, hết giặc Pháp đến giặc Mĩ. Thế hệ trước hết là ba má của Chiến, Việt, và chú Năm, sau đó là chị em Chiến và Việt... ở mỗi thế hệ đều ghi dấu ấn riêng và truyền thống của gia đình.

Những đứa con trong gia đình ấy, đầu tiên là ba, má, chú Năm. Người còn, người mất, nhưng họ chính là đại diện cho truyền thống đẹp đẽ của cha ông.

Trong gia đình ấy, nhiều người đã chết vì bị giặc giết, còn lại chú Năm - một người “đi đây đi đó nhiều”, và đặc biệt là “cũng ham sông ham bến". Chú Năm chính là cuốn gia phả sống của gia đình, là đại diện cho truyền thống gia đình đánh giặc.

Trong cả truyện, chỉ có chú Năm là hay hò nhất. Chú Năm hò không hay, bởi vì “giọng hò ấy đã đục và tức như gà gáy”, mỗi khi chú cất giọng thì chị em Chiến đều bịt miệng cười. Mỗi khi cất giọng “đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó... Và chú chỉ cất giọng hò khi chú kể sự tích gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu, những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”. Theo tiếng hò của chú, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định. ngọn đèn biển Gò Công hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”. Qua những hình ảnh như “tấm vá quàng”, “sông dài cá lội”... trong câu hò, người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công ấy đã nhắc nhở con cháu nhớ về ngọn nguồn, về hồn thiêng sông núi của cha ông bốn nghìn năm nay.

Cùng với tiếng hò, chú Năm còn tạo nên ấn tượng cho người đọc bởi chi tiết: chú có một cuốn sổ - đó là biên niên sử của cả gia đình. Cuốn sổ đặc biệt ấy lại được ghi bằng một thứ chữ cũng đặc biệt không kém. “Chữ chú lòng khòng vì hồi đi đánh Tây, chú mới được học”. Cuốn sổ còn đặc biệt vì nó được chép bằng lời văn mộc mạc, nó ghi lại cả việc “thím Năm bị bắn bể xuồng khi rọc lá chuối”, chết còn mặc quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”, hay chuyện ông nội ra nằm giàn bò bị lính bắn chết... Rồi cặn kẽ hơn nữa, ngày bà nội bị chúng đánh: chính xác, cặn kẽ đến mức đánh ba roi... chú gọi đấy là những việc “thỏn mỏn”, nhưng đó chính là những bằng chứng xác thực nhất về nợ máu của kẻ thù đối với vùng đất và con người chốn này. Cuốn sổ ấy, với chú Nàm là một bảo vật, chú cất giữ rất kĩ càng, để truyền lại cho các thế hệ sau.

Bên cạnh chú Năm là má của Chiến và Việt, một người phụ nữ mà cả cuộc đời dành cho chồng con và cho cách mạng. Đó là một người mẹ có vẻ đẹp mạnh mẽ. “Cái gáy đó, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tâm áo bà ba đẫm mồ hôi chồng hoạt động cách mạng, bị chặt đầu nhưng má cố kìm nén không để rơi nước mắt: ‘‘Chiều hôm ấy, về tới nhà má mới khóc... Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên, má cũng không khóc”. Mà nếu có lệ ứa ra thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể lể chi hết”. “Ba mày bị Tây chặt đầu, tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong đến ấp ngoài, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay cắp rổ...”. Câu chuyện về cái chết của người thân yêu trong gia đình cũng được kể bằng các giọng thật hồn nhiên.. Sự yêu thương, tình nghĩa đối với người phụ nữ ấy cũng được thể hiện một cách đau đớn, và mạnh mẽ dường ấy. Một người vợ tay bồng con, tay cắp rổ đi theo giặc để đòi đầu chồng. Một người mẹ dám hiên ngang không ai sinh ra là để đương đầu với hiện thực khốc liệt của xứ này. Nguyễn Thi đã tạo nên một hình tượng bình thường mà rất lạ về người mẹ mộc mạc, chất phác, mạnh mẽ ở một vùng đất có quá nhiều thử thách khốc Liệt.

Người mẹ ấy cuối cùng cũng ngã xuống vì bom đạn của kẻ thù, của chiến tranh tàn bạo. Truyền thống của gia đình lại được bồi thêm một dòng máu nóng của tinh thần chống giặc ngoại xâm.

Trong thế hệ hiện tại của gia đình có Chiến và Việt - những đứa con nối tiếp truyền thống vẻ vang của gia đình. Chiến có vóc dáng giống mẹ: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng”, và thân hình thì “to và chắc nịch”. Chiến không chỉ giống mẹ ở hình thức bên ngoài mà còn ở cả tính cách mạnh mẽ, xốc vác. Nói đến giống má, thì không có chỗ nào Chiến giống má như cái đêm hai chị em bàn tính việc nhà để đi bộ đội. Từ câu nói khẳng khái với chú Năm: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn, thì tao mất, vậy à”, đến những tính toán để lo sao cho chu đáo việc nhà; từ việc gửi
bàn thờ má, thằng út sang nhà chú Năm cho đến việc chi bộ mượn nhà, bàn ghế để mở lớp học; từ việc hôm nay, chị Chiến cũng ở nằm ở buồng trong với thằng Út nói ra cho đến cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi có tới ba lần Việt thấy chị Chiến giống y như má. Chính chị Chiến đêm nay dường như đang hòa vào trong mẹ: "Tao lựa ý nếu má còn sống, chắc má cũng tính vậy”... trong cái thời điểm linh thiêng ấy. người mẹ hiện diện rõ nét, nhất trong những đứa con của mình: “Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến thành đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa cầm nón quạt”.

Chiến giống má, đó là điều không ai phủ nhận, nhưng trong dòng chảy của dòng sông gia đình, chị là khúc sông sau, mà khúc sông sau bao giờ cũng thế, cũng đi xa hơn, chảy xa hơn. Chiến khác mẹ không phải là ở chiếc giường ở trong túi mà trong tưởng tượng của Việt, nó theo Chiến ra tận chiến trường cũng không phải là cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai bó vào miệng", hay tính thích cười. Người mẹ trước nỗi đau mất chồng chỉ biết kìm nén, nuốt vào sâu thẳm tâm hồn những đau đớn mất mát. Chiến không thể trưowrng thành, chiến đi bộ đội để trả thù nước, đòi nợ nhà với một quyết tâm sắt đá: Tao đã thưa với chu Năm rồi. Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”... Với người con gái ấy, yêu thương gắn liền với căm thù, và tình cảm ấy biến thành những hành động cụ thể là: giết giặc. cứu nước. Đó là lời thề sắt đá, là quyết tâm của cô gái trẻ, như chân lí sống đau khổ nhưng háo hùng của cả một thời đại.

Nhân vật trung tâm của truyện là Việt, cậu em trai còn mang nhiều nét tính cách trẻ con nhưng cũng là một đứa con rất đỗi tự hào trong gia đinh có truyền thống đánh giặc.

Nét nổi bặt trong hình ảnh của Việt tạo nên ấn tượng trong lòng người đọc đó chính là cái vẻ “tọc ngọc”, vô tư cua một cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn bao nhiêu thì Việt lại hay tranh giành bấy nhiêu. Việt tranh với chị từ việc ai bắt được ếch nhiều hơn để mồi lần chủ Năm lại phải đứng ra để phân xử, cho đến việc ai được đi bộ đội trước. Trong cái đêm trang trọng trước khi đi bộ đội, mặc cho chị Chiến sắp xếp, tính toán, Việt lúc thì “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại chụp một con đom đóm trong bàn tay”. Với cậu, đi bộ đội là mục đích lớn nhất đã được thỏa mãn thì bây giờ tất cả những việc khác dường như không đáng để lưu tâm. Cậu còn mang tính cách trẻ con ngay khi đã vào bộ đội. Chị Chiến mang đi cái gương, vật tùy thân của người con gái, thì Việt đi bộ đội nhưng lại mang một ná thun - một trò chơi của tuổi thơ.

Bên cạnh thành công trong việc xây dựng những tính cách điển hình của người nông dân Nam Bộ, truyện ngắn ngày còn có một thành công đặc sắc trong việc lựa chọn cách kể chuyện mà chúng ta thường gọi là nghệ thuật tự sự. Câu chuyện về gia đìah được thuật lại không phải hoàn toàn theo trật tự thời gian tuyến tính mà chủ yếu là theo nhịp dòng hồi tướng đứt đoạn của Việt khi Việt tỉnh dậy rồi lại ngất đi vì bị thương. Nguyễn Thi đã ý thức được điểm mạnh của lối trần thuật này. Nó có thế xóa nhòa những giới hạn của không gian và thời gian, nó có thể đi từ hiện tại về quá khứ trong dòng hồi tưởng của nhân vật.

Chẳng hạn, khi Việt tỉnh dậy lần thứ hai “lúc trời đã lất phất mưa. Tiếng máy bay tắt hẳn, chỉ còn hơi gió lạnh lùa trên má. Ếch nhái kêu dậy lên”. Tiếng kêu của ếch nhái dẫn Việt trở về với kỉ niệm của những ngày chưa đi bộ đội. Cứ trời dứt hột Việt đã cởi trần ra hai chị em hai cái đèn soi lóp ngóp đi. Cười từ lúc đi cho đến lúc về. Từ những tiếng ếch của đêm mưa, dòng hồi tưởng của nhân vật cứ miên man. Các nhân vật cứ thế xuất hiện, rất tự nhiên.

Cậu con trai mang cái vẻ lộc ngộc, vô tư đáng yêu ấy dám xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Lớn hơn một chút, Việt đã bắn cháy tàu của Mĩ trên sông Định Thủy, mà theo lời của chú Năm, để công bằng, chú đã ghi tên cả hai chị em trong chiến công đó. Đến khi đi bộ đội bị thương vào mắt, hai bàn tay đau đớn. nhưng Việt vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Việt không chịu lùi bước, không chịu thất bại, mỗi khoảnh khắc đều là ý thức đương đầu sống chết với kẻ thù. Việt giản dị. tự nhiên như cánh đồng nước, con sông, cây cối của xứ sở này. Vậy nên, dù là đánh giặc hay đi bắt ếch hoặc bắn ná thun trong vườn chim, tất cả đều hồn hậu, chất phác, bình dị...

Những đứa con trong gia đình là câu chuvện của một gia đình cụ thể của đồng bào Nam Bộ, nhưng qua đó tác giả đã khái quát được không khí của cả một thời đại, một dân tộc trong hai cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và chống Mĩ. Ở đây, con người đã thích nghi với hoàn cảnh chiến trường, và điều đáng quý là họ không bao giờ chịu khuất phục, dẫu có phải hi sinh nhiều thế hệ nhưng vẫn một lòng một dạ kiên trung, quyết đánh giặc đến hơi thở cuối cùng.

Qua sự hồi tưởng của nhân vật, gợi lại những câu chuyện đời thường của một gia đình có truyền thống đánh giặc. Nguyễn Thi muốn phản ánh và ngợi ca tinh thần bất khuất, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta nói chung và đồng bào Nam Bộ nói riêng. Trong tác phẩm, truyền thống ấy được thể hiện một cách đặc trưng qua tính cách của những người nông dân Nam Bộ trong cuộc chiến ác liệt chống giặc Mĩ. Họ “hồn nhiên, vui đời, bộc trực nhưng căm thù ngùn ngụt đối với quân cướp nước - những con người vô cùng gan góc, dường như sinh ra để cầm súng giết giặc, sẵn sàng chết vì quê hương mình, vì đồng bào mình”.
 

Đề 27: Màu sắc Nam Bộ trong truyện “Những đứa con trong gia đình” của tác giả Nguyễn Thi

 

“Những đứa con trong gia đình đã kết tinh nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Thi. Nghệ thuật kể chuyện, dựng cảnh, tạo hình, chọn chi tiết điển hình, phân tích tâm lí nhân vật, cá biệt hóa ngôn ngữ nhân vật...
Truyện Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là khúc tráng ca của tuổi trẻ miền Nam anh hùng thời đánh Mĩ.

Một trong những nét đặc sắc về nghệ thuật là Nguyễn Thi đã tạo nên màu sắc Nam Bộ, một dấu ấn tuyệt đẹp mà độc giả dễ dàng nhận thấy.

Màu sắc Nam Bộ biểu hiện rõ nhất là ở cảnh vật được miêu tả, ở sự việc được nói đến, ở tính cách và ngôn ngữ nhân vật được khắc họa (má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, Việt..).

Cảnh tượng chiến trường ở nơi nào, ở thời nào chẳng giống nhau, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Thi, chiến trường sau tiếng bom rền đạn réo lại có nét riêng, rất Nam Bộ. Giữa đồng không mông quạnh “một sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống.. ”, “tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên” giữa đêm sâu thăm thẳm. Chính giữa không gian ấy, người chiến sĩ bị thương nặng, lạc đơn vị mới cảm thấy rõ nhất mình đang trở về kỉ niệm tuổi thơ, mình đang sống giữa quê hương (một nơi trên vùng đồng bằng Nam Bộ): “Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao trùm lẩy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vòm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc...".

Ngôi nhà má Tư Năng cũng như hàng ngàn hàng vạn mái nhà của bà con khắp vùng Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Bến Tre... ở cạnh các vàm, các kênh, bao trùm bởi màu xanh của rặng bần, của khóm đước, mà người Bắc rất dễ nhận ra: “Nhà day cửa ra sông, trong đêm vui náo nức này, đom đóm từ ngoài rặng bần cũng kéo vào đẩy nhà. Chúng bay chớp chớp như dò trên nóc rồi sà xuống mặt Việt”.

Màu sắc Nam Bộ được thể hiện ở những vật dụng, ở cái gia tài của má Tư Nàng để lại. Đó là “năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má”, là "hai công mía để dành làm đám giỗ ba má”, là những thứ làm ăn của nhà nông nghèo khó, lam lũ: nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vá, đèn soi mà chị em Việt sẽ gửi lại chú Nam, trước khi đi đánh giặc.

Cảnh đêm tòng quân của tuổi trẻ vùng đồng bằng Nam Bộ vui như ngày hội, bà con cô bác cả xã kéo đến, “dàn sáng rực”, hai chị em Chiến và Việt tranh giành nhau, làm cho anh các bộ “đã cầm viết rồi lại dật xuống”, chú Năm phải “nheo mắt nhìn” đứng ra phân xử: “Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cả hai. Việc lớn là tính theo việc lớn, còn việc thỏn mọn trong nhà tôi thu xếp khác xong”. Đó là tầm lòng, là ý nghĩ, là cách nói chất phác cùa bà con cô bác nơi miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Cảnh hỗn chiến giữa ta và giặc, cảnh tấn công như vũ bão của quân ta. qua sự lắng nghe, sự cảm nhận của Việt vừa hồi tỉnh sau cơn mê cũng mang nét rất riêng của Nam Bộ thời đánh Mĩ: “Việt góc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời đất hồi Đồng khởi”.

Màu sắc Nam Bộ được thể hiện rõ nhất ở tính cách và ngôn ngữ của các nhân vật như má Tư Năng, chú Năm, của Chiến, Việt.

Hình ảnh má Tư Năng dẫn đàn con đi đòi đầu ba, hình ảnh má Tư Năng hiên ngang, thách thức: “Vợ Tư Năng đây!” khi đứng trước mũi súng và lời hăm dọa của lũ giặc: “Vợ Tư Năng đâu?’'. Bọn lính bắn vọt qua đầu má, má đưa hai bàn tay to bản phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Má chèo xuồng, mà đi làm thuê, mà đi đấu tranh chính trị, má coi thường cái chết, vì má tin một cách mộc mạc, giản dị rằng “người chết có cái vui của người chết, nếu không, người ta sanh con ra làm gì?” Hình ảnh má Tư Năng làm ta nhớ đến câu nói: “Còn cái lai quần cùng đánh” của chị út Tịch trong Người mẹ cầm súng.

Cái cuốn sổ ghi bao việc “thỏn mọn” trong gia đình bằng thứ chữ “lòng còng" Chuyện thím Năm, ông nội, bác Hai, tía của Việt... bị giặc giết như thế nào, các chiến tích của ông nội, của thằng Hai, của chị em Việt, chú đều ghi rõ. Cuốn sổ ấy là truyền thống cách mạng của gia đình má Tư Năng, cũng là của hàng vạn gia đình nông dân Nam Bộ trong suốt ba mươi năm trời đánh Pháp, đánh Mĩ.

Nguyễn Thi có tài sử dụng một số chi tiết nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, nâng lên tầm khái quát, tô đậm màu sắc Nam Bộ. Tiếng hò của chú Năm là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Thi tạo dựng nên. Giọng hò của chú Năm “đục và tức như gà gáy". Đã nhiều lần chú cất giọng hò. Trước bữa cúng má Tư Năng, chị em Việt Chiến sắp lên đường ra trận, chú Năm cất giọng hò: “Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngất lại như một lời thề dữ dội”.

Chị Chiến giống má như đúc. Chiến cũng có hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng như má. Tiếng “cóc”, tiếng “nghen”, tiếng “ừ”, tiếng chân bước *bịch bịch " của Chiến có khác nào má, “in như má vậy”. Bàn việc thu xếp nhà cửa trước khi đi đánh giặc, nghe em nói, Chiến “hứ một cái “cóc" rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi” như má. Chiến đảm đang, sớm biết lo liệu, thường nhường nhịn em, chú Năm đã hết lời ca ngợi: “Không! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, nặng nề nước non”. Chiến có tư thế hiên ngang, quyết liệt như các o du kích vườn dừa Bến Tre: “Đã làm thân con gái ra đi thì tao chí có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”.

Việt là hình ảnh đẹp nhất, in đậm màu sắc Nam Bộ nhất trong truyện Những đứa con trong gia đình. Nụ cười “lỏn lẻn”, hai gò má “cũng mướt như da trái vú sữa", cái ná thun của tuổi thơ vẫn mang theo khi đi bộ đội, Việt rất giống ba, mỗi lần nghe tiếng ná thun của Việt, má Việt lại nói: “Đó, lại giống cái thằng cha nó rồi!”. Việt hồn nhiên, trong sáng hay tranh giành với chị, nhưng lại “giấu chị như giấu của riêng’’ trước đồng đội. Dũng cảm trong chiến đấu, không sợ giặc nhưng lại sợ “thằng chỏng thụt lười”, ‘‘con ma cụt đầu"... Mới hai tuổi quân dã lập công tiêu diệt một xe bọc thép Mĩ; bị trọng thương, lạc đơn vị, nằm giữa chiến trường, tuy chỉ còn một viên đạn đã lên nòng. Việt “vẫn sẵn sàng nổ súng", “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”... Hình ảnh Việt theo má lên tới quận “đòi đầu ba", hình ảnh Việt trong đêm tòng quân, trong cảnh cùng chị gái khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm đã làm ta nhớ mãi, nhớ đứa con trai má Tư Năng, nhớ một chàng trai mới lớn vùng miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long thời chống Mĩ. Việt là hình bóng của quê hương; Việt là hiện thân trong câu hò của chú Năm: "... khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội cùa chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ờ Tháp Mười”.

Thời chống Mĩ, tuổi trẻ cả nước ta nung nấu một lời thề: “Ra đi chỉ một lời thề - Chưa giết hết giặc chưa về quê hương”. Việt và chị gái khi khiêng bàn thờ má đi gửi cũng đinh ninh một lời thề: “Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập, con lại đưa má về”.

“Những đứa con trong gia đình'’ đã kết tinh nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Thi. Nghệ thuật kể chuyện, dựng cảnh, tạo hình, chọn chi tiết điển hình, phân tích tâm lí nhân vật, cá biệt hóa ngôn ngữ nhân vật... tất cả đều mang màu sắc và hương vị Nam Bộ. Màu sắc Nam Bộ tạo nên hồn cốt phong cách ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Thi trong Người mẹ cầm súng và Những đứa con trong gia đình.

Sự thành công đó đã khẳng định vị thế được tôn vinh của Nguyễn Thi là "nhà văn của người nông dân Nam Bộ thời chống Mĩ”.
 

Đề 28: Những đứa con trong gia đình là sáng tác xuất sắc về những người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Hãy phân tích hình tượng hai nhân vật Chiến và Việt

 

Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi muốn nói mỗi con người, mỗi đời người trong một gia đinh phải là một khúc sông trong một khúc sông truyền thống.
Những đứa con trong gia đình là một sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Thi - cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam trong những năm chống Mĩ.

Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên lứa tuổi mười tám đôi mươi, và cũng đã kịp thời trở thành những chiến sĩ xông pha trận mạc.

Nhưng điều bất ngờ là dù thế, tác giả vẫn thể hiện họ chủ yếu trong tư cách những đứa con. Họ, những thanh niên ấy, quả có được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với anh em đồng đội. Thế nhưng họ vẫn được miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.

Nhìn những chiến sĩ trong tập thể chiến đấu như những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã có một cảm xúc nghệ thuật lí thú. Góc nhìn ấy sẽ cho phép nhà văn lí giải, cắt nghĩa phẩm chất cua con người không chỉ trong mối quan hệ ngang với một thời đại, mà còn trong mối quan hệ dọc và một truyền thống, một nếp nhà.

Cảm hứng nghệ thuật lí thú ấy đã tìm được cách biểu hiện cũng không kém phần lí thú. Câu chuyện được thuật lại không theo một trật tự thời gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên man, đưa nối của một chiến sĩ trẻ tên là Việt, bị thương, cứ liên tục ngất đi rồi lại tỉnh lại trong hoàn cảnh chỉ có một mình giữa một chiến trường mênh mông bóng tối (anh không nhìn thấy gì vì đã bị thương ở mắt) và vừa trở nên vắng lặng hẳn sau một trận đọ lê.

Truyện nói về những đứa con của một truyền thống gia đình yêu nước của người nông dân Nam Bộ, tác giả đã làm rõ cái truyền thống đã sinh thành ra những đứa con.

Trong truyện, truyền thống ấy được hiện lên trước hết qua hình ảnh chú Năm. Đây là hình tượng của con người giữ gìn truyền thống, bảo lưu truyền thống, qua những câu hò thiết tha và mênh mông sông nước về một thời nghèo cực mà anh dũng, hào hùng qua cuốn sổ gia dinh - mà thực chất là một cuốn gia phả độc đáo - ghi lại những nợ máu của quân giặc và sự dũng cảm. kiên cường của dòng họ trong chiến đấu cách mạng. Chủ yếu cũng vì lẽ ấy mà tác giả đã sáng tạo ra chi tiết: chị em Chiến - Việt rước bàn thờ má đặt tại nhà chú Mâm trước ngày lên đường đi chiến đấu.

Còn người mẹ thì cuộc đời đó chính là truyền thống. Người mẹ này thuộc vào số những hình tượng phụ nữ mang rõ dấu ấn khá riêng của phong cách Nguyễn Thi. Đó là một con người rất phụ nữ nhưng không hề mảnh mai, mềm yếu mà ngược lại, bà khỏe chắc về thể chất và dũng cảm về mặt tinh thần. Con người ấy bộc lộ phẩm chất phụ nữ của mình ở sự tảo tần, xốc vác, ở sức chịu đựng phi thường, ở khả năng ghìm nén đau thương để sống, để nuôi nấng, che chở, tranh đấu. Người mẹ nông dân bình dị ấy, cùng như mọi người mẹ, là hiện thân của yêu thương, của sự hết lòng với chồng con. Nhưng ở đây, cảm hứng của Nguyễn Thi về tình yêu của người mẹ là cảm hứng về một tình cảm có sức khiến con người không biết sợ, không chùn bước. Bồng con, cắp rỗ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới chân - đây là những hình ảnh có giá trị biểu tượng về người phụ nữ ở một đất nước như đất nước chúng ta: quá cực khổ nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau thương nhưng vô cùng cao cả.

Dù người mẹ đã mất truyền thống ấy sẽ tiếp tục sống trong những đứa con.

Trước hết, truyền thống ấy thể hiện ở người con gái, cô Chiến. Chiến không chi mang vóc dáng của mẹ, với khổ người to chắc. Chiến còn mang cái nết của mẹ: gan góc, tháo vát., biết tính toán, xếp đặt, lo toan, nói về việc “nghe in như má”. Đó đúng là một đứa con trong gia đình, nối tiếp được truyền thống của gia đình.

Nhưng Chiến không phải là bản sao của mẹ. Cô có những nét mới của thế hệ sau: hồn nhiên, vui tươi, hay cười, còn chú ý làm đỏm nữa. Và điều quan trọng hơn là người mẹ trong truyện suốt đời không cầm súng và chỉ quanh quẩn ở quê nhà. Chiến bắn được tàu giặc từ khi còn nhỏ. Và người con gái ấy sẽ đi xa trong cuộc đời, với một ý nghĩ anh hùng không kém nam nhi: “Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”.

Việt - người con trai - cũng thế. Cậu thừa hưởng ở mẹ cha, từ khi còn bé, cái tính không hề biết sợ, cái thái độ coi việc đánh giặc cũng tự nhiên như hít thở khí trời, không có gì đáng phải phân vân, đắn đo.

Nhưng Việt không hoàn toàn giống Chiến. Việt là em, lại là em trai, đang trong tuổi ăn, tuổi lớn. Chính vì thế, nhân vật này mang rất nhiều cái duyên dáng của Nguyễn Thi. Việt anh hùng, nhưng không vì thế mà mất đi dáng vẻ vô tư, lộc ngộc của một chàng trai mới lớn. Nhưng dù có thế, thì Việt vẫn là khúc sông trong dòng sông truyền thống của gia đình: đi chiến đấu xa nhất, lập công lớn nhất, và là người tiêu biểu nhất cho tinh thần chiến công cách mạng.

Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi muốn nói mỗi con người, mỗi đời người trong một gia đinh phải là một khúc sông trong một khúc sông truyền thống. Dòng sông ấy chảy trôi theo thời gian, từ thế hệ trước sang thế hệ sau, để rồi đổ vào đổ vào vẻ đẹp và sức mạnh mênh mang của Tổ quốc, dân tộc và có thể rộng lớn hơn nữa - loài người.

Trên cơ sở của ý tướng trên, thiên truyện quả đã cho ta hình dung thấy: đã có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những thế hệ cha anh đến đời hai chị em Chiến, Việt.

Đấy là một dòng sông mà khúc thượng nguồn đã được nhà văn cho thấp thoáng hiện ra qua hình tượng chú Năm.

Rồi đến khi gần gũi hơn với những đứa con - khúc sông đời mẹ.

Những đứa con trong gia đình, đến lượt mình, sẽ tiếp bước của những khúc sông trước đó, kế thừa truyền thống được cha anh đổ vào cho khúc sông của đời minh. Nhưng họ là khúc sông sâu, họ sẽ chảy xa hơn.

Nhưng đó không phải là dòng sông đơn độc. Dòng sông ấy sẽ hòa vào biển cả. Cũng giống như những con người trong gia đinh, họ luôn gắn mình, gắn gia đình mình với số phận của Tổ quốc, nhân dân, cách mạng. Đó là hiện thân của sức trẻ tiến công và đó cũng là hình ảnh của người nông dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài, gian khổ.
 

Đề 29: Phân tích nét đặc sắc về tầm khái quát nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi

 

Nghệ thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình có tầm khái quát bởi những thủ pháp chính của lối kết cấu này hầu hết đã được Nguyễn Thi thể hiện thành công trong truyện.
Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, người Nam Hà. Ông vào Nam từ năm 1945, gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Khọc Tấn. Tập kết ra Bắc năm 1954, năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai, viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi. Năm 1968, ông hi sinh tại Sài Gòn trong lúc ngòi bút còn đầy sung sức và nhiệt huyết. Là nhà văn chiến sĩ,

Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng. Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công nghệ thuật đồng hiện ở truyện Những đứa con trong gia đình (1966).

Theo nghĩa đen “đồng hiện” là “cùng thể hiện”. Trong truyện, đây chỉ là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc về kết cấu tác phẩm, một yếu tố thuộc về hình thức. Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ chức, sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Thủ pháp đồng hiện góp một vai trò quan trọng trong công việc này. Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo. Từ đó, cốt truyện, nhân vật, chủ đề được thể hiện, gây hiệu quả nghệ thuật tác động đến độc giả... Nét độc đáo của nghệ thuật đồng hiện là cùng một lúc các sự kiện, các tình tiết, các nhân vật (hay các nét tính cách của nhân vật) được thể hiện trong một thời gian, một không gian hay trong một mảnh thời gian và không gian khác nhau.

Trong truyện Những đứa con trong gia đình nghệ thuật đồng hiện được thể hiện khá tinh tế. Dựa trên kết cấu lấy dòng suy tưởng làm nền. Nguyễn Thi đồng thể hiện các sự kiện trong một thời điểm, các nhân vật (và các nét tính cách của nó) trong cả hai mảnh thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả.

Trước hết xin nói về cách đồng hiện các sự kiện trong một thời điểm ở truyện Những đứa con trong gia đình.

Sau cuộc giao tranh ác liệt giữa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ, Việt bị thương nặng, ngất đi. Việt tỉnh dậy, trận địa vắng tanh, “trừ tiếng máy bay”. Chiến trường vẫn còn nguyên vẹn với những chiếc xe tăng, xe bọc thép cháy, những vỏ đạn tanh máu, xác lính Mĩ bốc mùi... “Việt cho mũi lê đi trước”, “Lên đạn”... sẵn sàng “phụ với các anh”, trận đánh được miêu tả hình như chưa kết thúc. Thời điểm để nhà văn chọn miêu tả thời gian trước và sau trận đánh hình như là thời điểm ở giữa thời gian này? Mặt khác, những chi tiết truyện, theo phân tích trên, không phải là đã kết thúc, cũng không phải là đang xảy ra. Nó là sự kiện đang xảy ra. đã xảy ra và được nhìn trong cái đã kết thúc, sắp kết thúc. Nói cho dễ hiểu hơn, người ta thấy được trận đánh đã và sẽ xảy ra như thế nào ở một thời điểm ở trong nó. Nhìn vào những gì xảy ra ở thời điểm đó, người ta thấy tất cả.

Bây giờ thì Việt đã ở quân y viện. Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn lại, nhớ lại. Thành ra anh có thể thấy được cả mảng đời trong hiện tại của mình và có thể nhớ lại cả mảng đời của gia đình mình trong quá khứ. Anh như lần về quá khứ từ gần đến xa lắc. Thông qua dòng độc thoại diễn ra trong Việt ở các thời điểm nằm ở quân y viện kia bao nhiêu sự kiện vui buồn, bao nhiêu số phận con người trong chiến tranh như cùng về một lúc. Lần lượt nhưng không theo một trình tự nào, Những đứa con trong gia đình giàu truyền thông cách mạng của anh được tái hiện ở những nét tính cách chung và riêng rẽ như họ đang ở trước mặt.

Nhân vật trung tâm là Việt. Dù ở thời gian, không gian nào, nhân vật cũng được khắc họa song song hai nét tính cách cơ bản: chiến sĩ - trẻ thơ.

Ở quân y viện “Hai mắt còn khăng kín mít” dấu tích của người lính dũng cảm. Việt “với cây viết chì... mò mò viết thử". Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị. Anh sợ cái tiếng “cậu tư”. Sợ mất “chị ba” quyết chiến. Anh “giấu chị như giấu của riêng vậy”. Thật là ngây thơ! Cái ngây thơ đáng yêu của một anh lính trẻ, dũng cảm thật đấy mà cũng khờ khạo thật đấy trước cuộc đời. Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo lối tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật!

Trên chiến trường ngổn ngang xác giặc, Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức, người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện. Thế mà khi nghe “ếch nhái kêu dậy lên”, Việt bỗng trở thành chú bé con có “hai cái đèn soi, lóp ngóp đi” soi ếch cùng chị. “Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình ", em cũng không chịu nhường ai đi trước, chú Năm phải đứng ra “xin trên cứ ghi tên cho cả hai”...

Qua một vài điều đã nói trên, ta thấy thủ pháp nghệ thuật để thực hiện nghệ thuật đồng hiện trong khi khắc họa nhân vật Việt, chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tưởng, phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác; từ chi tiết, nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia... Trong sự liên kết đó, dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất. Từ chi tiết anh em trong quân y viện gọi anh là “cậu tư”. Việt chợt nhớ tới chị Chiến, nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh. Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thế viết được vì hai mắt vẫn còn bị băng kín. Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom, nhớ lại trận đánh của chính mình. Việt nhớ lại trong trận đánh, anh đã ngất đi; tỉnh lại, bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó, tuổi thơ, những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ... Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên. Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện: Đôi mắt của Nam Cao. Ở đó, câu chuyện cũng diễn ra theo dòng hồi tưởng của nhân vật Độ. Khác chăng là Nam Cao để Độ xưng “tôi” và tự kể. Còn ở đây, Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả diễn biến tâm trạng Việt. Ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa để cho tâm trạng ấy nói lên câu chuyện mình muốn kể. Có lẽ đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo, sáng tạo.

Vẫn bằng cách trên, theo dòng độc thoại của nhân vật Việt, tác giả lần lượt cho xuất hiện và đồng hiện các nhân vật Chiến, chú Năm, ba má Việt, Tánh.

Cũng như Việt, Chiến tòng quân và chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương. Chị đã chiến đấu dũng cảm, coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc", 'như ta đang ngủ vậy". Chiến chỉ khác Việt ở chỗ, là người chị cả trong gia đình nên sớm trường thành. Chị theo mẹ nuôi và dạy dỗ em, lo toan tính toán tất cả mọi việc trong nhà. Là người chị cả của gia đình, Chiến dứt khoát không nhường em là việc ghi tên để tòng quân. Nhớ và nghĩ về người chị, dòng tâm tưởng của Việt như cố dừng lại ở những kỉ niệm đẹp khó quên.

Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tưởng, gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến địa đã im tiếng súng.. Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về, chú đều “kiếm con trọng trọng đem về nhậu”. Có hai đoạn văn đẹp như thơ là đoạn chú Năm “nhậu vào ba hột là chú nói tới", hay “hò lên mấy cáu”. Câu hò khiến chú xúc động “đôi mắt mở to, đọng nước. Đoạn văn khác kể về cuốn sổ gia đình chú ghi, hầu để sau này “giao... cho chị em bây”. Cuốn sổ lần về quá khứ lẫn trong hiện tại, không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại, chéo lại bởi cái nhìn, cái cảm, cái yêu, cái ghét cùa một tính cách Nam Bộ trọng nghĩa, bộc trực, sôi nổi, yêu đời.

Ba và má Việt hiện về trong Việt như những kỉ niệm về lòng yêu thương và căm thù. Tình yêu cùa ba má, con đường của ba và tội ác của giặc khiến chị em Việt không thể không lên đường cứu nước. Những đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết nên bằng nước mắt. Đọc, thấy xúc động cùng nhân vật; đau nỗi đau cùng nhân vật...

Hai nét chính yếu của Nghệ Thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình mà ta vừa phân tích trên, có nhiều tác dụng đối với truyện. Chính nó làm cho câu chuyện thảm khốc và hào hùng, đậm đà tình người... tưởng như chập chờn, dứt nối, rời rạc., liền lại trong mạch ngầm tâm tường khá chặt chẽ. Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường và trong chiến trận hồi chiến tranh. Các mảng sự kiện, những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau, bố sung cho nhau một cách hợp lí, làm cho tính cách nhân vật được khác họa rõ nét và chủ đề truyện được bộc lộ khá nổi bật. Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lí nhân vật. Nó cũng đòi hòi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc, am hiểu và đồng cảm với nhân vật. Tất cả những điều này, Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công.

Nghệ thuật đồng hiện trong Những đứa con trong gia đình có tầm khái quát bởi những thủ pháp chính của lối kết cấu này hầu hết đã được Nguyễn Thi thể hiện thành công trong truyện. Thực ra lôi kết cấu này không mới. Cái mới ở đây là nó được thực hiện khá toàn diện và đạt được những đỉnh cao. Những đỉnh cao này ghi dấu những đóng góp quý báu của Nguyễn Thi trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, đặc biệt là bộ phận văn học viết về đề tài chiến tranh và cách mạng.
 

Đề 30:Phân tích chất Nam Bộ thể hiện ở tính cách và ngôn ngữ các nhân vật Chiến, Việt và chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”

 

Truyện Những đứa con trong gia đình đậm màu sắc Nam Bộ. Chất Nam Bộ thể hiện rõ ở tính cách và ngôn ngữ của từng nhân vật.
Chất Nam Bộ thể hiện ở tính cách và ngôn ngữ các nhân vật Chiến, Việt và chú Năm

Truyện Những đứa con trong gia đình đậm màu sắc Nam Bộ. Chất Nam Bộ thể hiện rõ ở tính cách và ngôn ngữ của từng nhân vật.

-Chú Năm: lạc quan, yêu đời, thường bày tỏ tâm tình bằng câu hò bài hát. Chú Năm xuất hiện trong thiên truyện như một biểu tượng cho truyền thống gia đình. Những việc làm của nhân vật này luôn nhằm động viên, khích lệ con cháu sống mạnh mẽ.

-Chiến: tính tình bộc trực, sớm biết thu vén việc gia đình, nhất là dũng cảm, gan góc.

-Việt: thẳng thắn, chiến đấu dũng mãnh “gan lì”...
 

Đề 31Đoạn kể lại hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm gay cho người đọc nhiều xúc động trong “Những đứa con trong gia đình”

 

Đoạn kể lại hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm gãy cho người đọc nhiều xúc động

Đoạn kể hai chị em Việt, Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm có giá trị tư tưởng đặc sắc. Đoạn văn ấy chẳng những bộc lộ lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm trả thù cho ba má, quê hương mà còn cho thấy tâm tình thành kính thiêng liêng của hai người con đối với cha mẹ. Chiến tỏ ra chu đáo đảm đang. Việt đồng lòng nhất trí với cách làm của chị. Cả hai chị em biết bảo nhau, thương yêu nhau, biết thu vén trọn vẹn chuyện gia đình để yên tâm lên đường đánh giặc. Những tình tiết ấy gây xúc động xâu xa đối với người đọc.
 

Đề 32: Phân tích tâm kí và tính cách nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi

 

Phân tích tâm lí và tính cách nhân vật Việt

Việt là cậu con trai mới lớn, có vẻ đẹp riêng của người con trai Nam Bộ.

- Việt hồn nhiên trong sáng: gửi người giữ cái ná thun khi đi đánh giặc; thương yêu chị đến nỗi sợ mất chị nên giấu thật kĩ việc mình có chị gái; khi bị thương Việt không sợ chết mà sợ bóng đêm, sợ ma; tranh giành việc đi soi ếch đến việc lập công, đi bộ đội với chị gái.. Nguyễn Thi chú ý tô đậm tiếng cười trẻ trung, trong trẻo của Việt.

- Việt thương yêu gia đình, luôn trân trọng những kỉ niệm sâu nặng về quê hương, về tuổi thơ: thương mẹ, thương chị và chú Năm; cùng chị chuyển bàn thờ cha mẹ qua gửi chú Năm; khi bị thương nặng hình ảnh của cha mẹ cứ chập chờn ẩn hiện trong ánh hào quang kí ức của Việt; ... Tất cả những điều này góp phần khẳng định sự thực: chính sức mạnh tinh thần to lớn đã giúp Việt vượt qua cái chết để tồn tại.

- Việt mang trong mình phẩm chất người anh hùng: chiến đấu dũng mãnh “gan lì”, cùng chị bắn cháy tàu giặc; dù bị thương và kiệt sức nhưng vẫn cố gắng chiến đấu. Việt tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống đánh giặc cứu nước của gia đình. Chẳng phải ngầu nhiên, Nguyễn Thi (qua lời nhân vật chú Năm) ví gia đình Việt với hình ảnh một con sông mà mỗi người ứng với một khúc của con sông đó. Việt và người chị của mình trở thành khúc sông sau nối dòng sông chảy ra biển lớn.

Bài viết gợi ý: