Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn bách thú. Đề tài đầy kịch tỉnh. Cảnh ngộ là một thân từ hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã hết thời đập phá hung dữ đòi tự do. Ông đã thấm thía sự bất lực và ý thức được tình thế của mình, cam chịu cảnh gặm nhấm một khối căm hờn, nằm dài trong ngày tháng qua, mặc cho thân thể bị tụt xuống ngang cấp với các loài hèn kém. Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói con hổ này đã được thuần hóa, chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bện vô tư lự. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài thôi, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay vẫn ngùn ngụt lửa. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ sự diễn đạt phong phú của Thơ mới khi dựng lại khung cảnh kỳ vĩ trong mộng tưởng của chúa sơn lâm.
Mối bi kịch ở nơi tù, hồn ở giang sơn cũ đã tạo nên chất men ngưỡng mộ đối với hoài niệm. Qua tâm linh của loài hổ, rừng núi hiện lên trong vẻ kỳ vĩ đắm say. Kỳ vĩ vì thầm nghiêm bóng cả cây già. Kỳ vĩ dữ dội oai hùng với các từ gào, thét, dữ dội. Kỳ vĩ hoang vu bí ẩn hoang tối, thảo hoa không tên tuổi, riêng phần bí mật. Trong cảnh núi rừng kỳ vĩ đó hiện lên hình ảnh oai linh của chúa sơn lâm. Trọng tâm của bức tranh rừng này là con hổ. Nhưng trước khi để hổ hiện ra. Thế Lữ đã dựng cảnh để gợi không khí oai hùng kinh sợ. Vào đúng lúc tiếng gào thét của thiên nhiên đang ở đỉnh cao dữ dội, chúa sơn lâm xuất hiện. Đầu tiên chỉ thấy bàn chân một bước chân dõng dạc, đường hoàng. Câu thơ như đoạn phim cận cảnh quay chi tiết, thu hút sự chú ý của khán giả. Sau bàn chân là tấm thân, xuất hiện rất từ tốn nên càng oai hùng, to lớn. Chiều dài của tấm lưng trải ra theo câu thơ, một sự mềm mại tích trữ sức mạnh.
Lươn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai, có sắc.
Cách miêu tả từng động tác, lại là những động tác có chọn lựa của bàn chân, tấm thân và ánh mắt đã thể hiện được sức chế ngự mãnh thú trước phong cảnh. Mấy câu thơ sau đã hoàn tất nốt bức chân dung chúa sơn lâm. Cái bại của chúa rừng có chế ngự cả cảnh vật khi chúa đã đi qua, khiến cho mọi vật đều im hơi. Câu nói kiêu hãnh của loài hổ, không gì quá đáng:
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài.
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi
Chỉ một đoạn thơ này đã đủ nói cái quá khứ oai hùng, giang sơn nhất khoảnh của chúa rừng. Thế Lữ còn dư sức viết một đoạn nữa, cũng chủ ý ấy nhưng chi tiết lấy từ sinh hoạt của ác thú. Ốc tưởng tượng của nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới thật phong phú, từ chi tiết thực của thú, ông đã dựng được chân dung tâm hồn của vị chúa tế. Có bốn cảnh: đêm trăng - ngày mưa - sáng xanh - chiều đó. Bức tứ bình này (Thế Lữ cũng là họa sĩ đã từng học Cao đẳng Mỹ thuật) ít chi tiết nhưng nét đậm rõ, màu lên từng mảng lớn trong cảnh có cả âm thanh, khi tưng bừng tươi sáng, khi câm lặng bí ẩn. Bút pháp tả cảnh ở đây hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vừa là tả tập tính của thú nhưng sức gợi của câu thơ mộng xa, giúp người đọc thấy cái hồn của cảnh và tâm trạng con thú:
Nào đầu những đêm màng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.
Sự im lặng thiêng liêng có chút ghê rợn nhưng thật kỳ ảo quyến rũ: Bên suối trăng một mãnh thú uống nước, rình mồi. Tác giả nâng uy quyền của chúa rừng bằng cách để hắn đối diện với thiên nhiên tạo hóa trong cả bốn bức tranh đó - đối diện với trăng, với mưa, với bình minh với hoàng hôn. Và ở cả bốn khung cảnh, con hổ đều ở thế chế ngự - chú ý các động từ tả hoạt động của hổ trong bốn cảnh: say mồi, đứng uống, lặng ngắm giang sơn, đợi mặt trời chết, để chiếm lấy... Đẹp nhất, dữ dội bị tráng nhất là cảnh hoàng hôn, Bức tranh rực rỡ trong gam đỏ: Đỏ của máu lênh láng, đỏ của mặt trời gay gắt. Tác giả dùng chữ mảnh để gọi mặt trời tưởng như mặt trời cũng bé đi trong mắt nhìn loài hổ. Không khí chết chóc bao trùm, gợi lên do máu lênh láng, do giây phút hấp hối gay gắt của mặt trời. Chỉ ít phút nữa vũ trụ sẽ chết lặng, ngự trị trong bóng tối, chỉ còn có cái linh của hổ. Đây là điểm cao trào nhất của quyền lực, gần như sự bất tử. Từ trên đỉnh cao huy hoàng của hồi tưởng, hổ đã sực tỉnh cái thân tù.
Than ôi! Thời oanh liệt này còn đâu!
Lời than có sức lay động và ngân vang do sự tương phản ấy. Hùm thiêng khi đã sa cơ... Bản thân sự hồi tưởng này đã cụ thể hóa cảnh ngộ của câu thơ: Gậm một môi căm hờn trong cũi sắt. Mỗi lần hồi tưởng là một lần ý thức thêm sự bất lực, là một lần gậm nhấm thất bại.
Nhiều người đã bình luận có lý về ý nghĩa xã hội của bài thơ: Hổ. trong cũi sắt nhớ tự do là biểu tượng cho tình cảm của người dân Việt mất nước. Bài thơ có ý nghĩa thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí tự tôn dân tộc một cách kín đáo. Tuy nhiên, nếu chỉ thấy ý nghĩa đó tức là chúng ta chưa nói hết bài thơ và cũng rất nên đề phòng khi đi vào ý nghĩa xã hội, vì như thế rất dễ sa vào bình tán mà tách dần khỏi hình tượng thẩm mỹ vốn có của bài thơ. Đoạn cuối cùng của bài thơ không xuất sắc bằng các đoạn trên nhưng lại bộc lộ rõ khuynh hướng tư tưởng của bài thơ qua tâm sự chúa sơn lâm:
Nay ta ôm liền tuất luận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang tầm thường, giả dối.
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối chẳng thông dòng
Len dưới nách những nỗ gò thấp kém
Dăm vàng lá hiền lành không bí hiểm,
Cung học đòi bắt chước lẻ long vu
Cửa cuốn ngàn năm cao cả, âm u.
Niềm uất hận đương nhiên là vì tù túng, nhưng cái uất nhất do sự tù túng gây nên là phải chấp nhận cái tầm thường. Hỗ nhớ rừng không chỉ là nhớ tự do mà còn là, nhớ cái cao cả, cái chân thực, cái tự nhiên. Tới đây chúng ta gặp thuộc tính của chủ nghĩa lãng mạn: Vươn tới cái phi thường, cao hơn cuộc sống hàng ngày buồn tẻ, đơn điệu, bé nhỏ trong tầm tay trần tục của con người: hoa chăm, có xén, lối phẳng, cây trồng. Niềm khao khát của con hổ nhớ rừng là khát khao trở về với cái kỳ vĩ, siêu phàm, không chung sống được với cái tầm thường, thấp kém giả tạo. Đó cũng là vẻ đẹp của nhân cách, tuy rằng mang nỗi khát khao ấy trong mình là đã mang săn niệm thất vọng vì cái phi thường của các nhà lãng mạn cũng là cái phi thực.