Phân tích tác phẩm “MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI
CA”
(Hoài Thanh)
1.
Lý thuyết
1.1. Tác giả
- Hoài Thanh (1909 - 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức
Nguyên. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở xã Nghi
Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Trước cách mạng, thời còn đi học, ông từng tham gia
phong trào yêu nước và bị thực dân Pháp bắt giam. Ông viết văn từ những năm 30
của thế kỉ XX.
- Tháng 8 – 1945, ông tham gia khởi nghĩa và làm Chủ tịch
Hội Văn hóa cứu quốc ở Huế. Sau Cách mạng tháng Tám, ông hoạt động chủ yếu
trong ngành Văn hóa – Nghệ thuật và giữ nhiều chức vụ quan trọng.
1.2.
Tác phẩm
- Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của
văn học Việt Nam hiện đại. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng: “Văn
chương và hành động” (1936), “Thi nhân Việt Nam” (1942), …
- “Một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cuốn
“Thi nhân Việt Nam”, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới. Đoạn trích
thuộc phần cuối của bài tiểu luận nói trên.
- Hoài Thanh có biệt tài trong thẩm thơ, ông “lấy hồn
tôi để hiểu hồn người”. Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế, tài hoa và
luôn thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh.
1.3.
Đọc hiểu văn bản
1.3.1. Nguyên tắc xây dựng
tinh thần thơ mới:
- Những khó khăn trong việc xây dựng tinh thần thơ mới:
+ Ranh giới giữa thơ mới và thơ cũ không phải lúc nào
cũng rõ ràng, dễ nhận ra.
+ Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở.
Gía mà thơ cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện biết mấy. Khốn nỗi cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần của thơ một cách đúng đắn thì phải sánh bài hay với bài hay chứ không thể sánh với những bài dở hơn.
=> Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một
giọng thiệu thân mật, gần gũi, thiết tha, tác giả đã nêu lên được cái khao khát
của kẻ yêu văn quyết tâm tìm được tinh thần thơ mới.
1.3.2. Nguyên phương
pháp:
- So sánh bài hay với bài hay, không so với bài dở. Bởi
vì khốn nỗi cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn
hiểu tinh thần của thơ một cách đúng đắn.
- Nhìn đại cục vào đại thế, không nhìn vào cục bộ (cái
nhìn biện chứng).
Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ nét đặc
sắc mỗi thời thì ta phải nhìn vào đại thể, không thể nhìn vào cục bộ, tiểu tiết.
Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa hay thơ cũ và thời nay hay thơ mới có
thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước thì là cái ta, giờ đây lại nổi bật lên cái tôi.
Tác giả đã đưa ra sự phân biệt: “Gía các nhà thơ mới cứ
viết những câu như hai câu vừa trích trên này thì tiện cho ta biết mấy. Nhưng
chính Xuân Diệu còn viết:
Người giai nhân: bến
đợi dưới cây già;
Tình du khách:
thuyền qua không buộc chặt.”
Trong khi đó một nhà thơ cũ khác lại có những câu thơ
nhí nhảnh và lả lơi:
“Ô hay! Cảnh cũng
ưa người nhỉ
Ai thấy ai mà chẳng
ngẩn ngơ?”
Để
rồi ông thấy được cái khó khăn của việc tìm ra thơ mới là thơ mới nó chỉ so
sánh bài hay với bài hay, và nó phải nhìn vào đại thể để xem xét chứ không thể
nhìn vào cục bộ, bộ phận hay tiểu tiết nhỏ. Bởi lẽ những cái nhỏ, cái tiểu tiết,
cái dở sẽ không đủ tư cách để đại diện cho một thời đại nghệ thuật, một thời đại
thi ca.
1.3.3. Tinh thần thơ mới:
Điều cốt lõi mà
thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam bấy giờ là “cái tôi”. Cứ đại thể thì tất cả
tinh thần thời xưa hay thơ cũ và thời nay hay thơ mới có thể gồm lại trong hai
chữ tôi và ta. Ngày trước thì là cái ta,
giờ đây lại nổi bật lên cái tôi.
- Tinh thần thơ mới: cái tôi, “chữ tôi với cái nghĩa
tuyệt đối của nó.”
- Cách hiểu về chữ tôi: so sánh
+ Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể,
cộng đồng, dân tộc. Lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình.
+ Thơ mới là tiếng nói của cái tôi với nghĩa tuyệt đối
của nó với cái riêng, cái cá nhân, cá thể. Bản sắc của cá nhân chìm đắm trong
gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.
=> Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu, được kết
hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều.
1.3.4. Sự vận động của
thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó:
- Ngày thứ nhất: Nó thật bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất
khách, chưa phổ biến bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy là quan niệm
cá nhân. Khi chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt
Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách vô cùng khó chịu. Nó luôn đi theo những
chữ anh, bác, ông. Huống bây giờ nó lại đến một mình!
=> Bị khó chịu, ác cảm, không được cảm thông và chấp
nhận.
- Ngày một ngày hai: nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được
vô số người quen, người ta còn thấy nó đáng thương.
=> Được quen dần và thương cảm, con người nhìn nó với
ánh mắt vị tha và khoan dung hơn, có thể chấp nhận.
=> Tác giả đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử,
trong bối cảnh lịch sử cụ thể để xem xét, với giọng điệu giàu cảm xúc.
Ta có cái tôi thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu
trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,
đắm say cùng Xuân Diệu, ngẩn ngơ cùng Huy Cận. Cùng nhìn vào đoạn văn mà Hoài
Thanh đã viết:
“Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.”
* Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì:
Ta đã thấy chính cái tôi của thơ mới đã thổi vào tâm hồn
của các nhà thơ những nỗi buồn man mác, bơ vơ lạc lõng mà không thể đi đâu để
giải thoát. Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái hiên ngang ngày trước. Chữ ta với
họ rộng quá. Tâm hồn họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Không tìm thấy ở họ
cái khí phách, cốt cách hiên ngang, đến chút tự trọng để khinh cảnh cơ hàn mà họ
cũng không hề có:
“Nỗi đời cay cực
đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với
khách thơ.”
- Cái tôi của thơ mới đã nói lên cái bi kịch của cả một
thời đại. “Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ
thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả
cái bình yên thời trước”. Thời trước là khi mà dẫu có bị oan ức, khinh bỏ thì vẫn
có thể nương tựa vào một gì đó không di dịch. Ngày nay thì lớp thành kiến phủ
trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hòe phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao
trả hồn ta lại cho ta, nhưng ta lại bang hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một
điều đó là một lòng tin đầy đủ. => Đó là tất cả bi kịch đương diễn ngấm ngầm
dưới những phù hiệu dễ dãi trong tâm hồn người thanh niên.
- Rên rỉ, khổ sở, thảm lụi.
- Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách
thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch.
=> Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể
hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn
vào cả tình yêu thơ văn. Những nhà thơ lãng mạn cũng như người thanh niên đã gửi
bi kịch ấy vào Tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi năm, mấy
mươi thế kỉ đã chia sẻ buồn vui với ông cha ta. Họ dồn tình yêu quê hương trong
tình yêu Tiếng Việt. Tiếng Việt với họ là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ
qua. Và bây giờ đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi
băn khoăn riêng, tâm tư tình cảm riêng của mình.
=> Vì vậy, trong thất vọng vẫn len lỏi đâu đó những
hi vọng dù là nhỏ nhoi. Bây giờ hơn bao
giờ hết họ thấu hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam phong: “Truyện Kiều
còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.”
Họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ
xưa chỉ biến thiên chứ không thể nào tiêu diệt được nó. Họ thấy cần phải tìm về
dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho một ngày mai tươi sáng và tốt
đẹp hơn.
2.
Luyện tập
Đề
1:
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ “tôi” và “ta” trong thơ mới và thơ cũ có gì
khác nhau.
Cả cái tôi và cái ta đều là sự ý thức về bản thân
mình, thổi hồn vào thơ văn làm thành những tác phẩm cống hiến cho nền thi ca
nhân loại. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ nét đặc sắc mỗi thời
thì ta phải nhìn vào đại thể, không thể nhìn vào cục bộ, tiểu tiết. Cứ đại thể
thì tất cả tinh thần thời xưa hay thơ cũ và thời nay hay thơ mới có thể gồm lại
trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước thì là cái ta, giờ đây lại nổi bật lên cái tôi. Hai yếu tố này khác nhau ở chỗ:
- Chữ “ta” trong thơ cũ:
+ Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể,
cộng đồng, dân tộc. Lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình.
- Chữ “Tôi”
trong thơ mới:
+ Thơ mới “chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó” là
tiếng nói của cái tôi với nghĩa tuyệt đối của nó với cái riêng, cái cá nhân, cá
thể. Bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước
trong biển cả.
+ Cái tôi thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu trong
trường tình cùng Lưu Trọng Lư, điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, đắm
say cùng Xuân Diệu, ngẩn ngơ cùng Huy Cận
+ Cái tôi của thơ mới đã nói lên cái bi kịch của cả một
thời đại. “Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ
thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả
cái bình yên thời trước”. Thời trước là khi mà dẫu có bị oan ức, khinh bỏ thì vẫn
có thể nương tựa vào một gì đó không di dịch. Ngày nay thì lớp thành kiến phủ
trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hòe phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao
trả hồn ta lại cho ta, nhưng ta lại bang hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một
điều đó là một lòng tin đầy đủ. => Đó là tất cả bi kịch đương diễn ngấm ngầm
dưới những phù hiệu dễ dãi trong tâm hồn người thanh niên.
+ Ngôn ngữ bình thường trong đời
sống hàng ngày được nâng lên thành ngôn từ nghệ thuật trong thơ, không còn câu
thúc bởi việc sử dụng điển cố văn học.
+ Nội dung
đa diện, phức tạp, không bị gò ép trong những đề tài phong hoa tuyết nguyệt
kinh điển.
+ Chịu ảnh
hưởng của các trào lưu, khuynh hướng hiện đại trong thơ ca phương Tây như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa ấn tượng, duy hiện đại,...
Đề
2:
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới đã được biểu lộ như thế nào?
Các nhà thơ mới đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước
thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn vào cả tình yêu thơ văn. Những
nhà thơ lãng mạn cũng như người thanh niên đã gửi bi kịch ấy vào Tiếng Việt. Họ
yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi năm, mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ buồn vui với
ông cha ta. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu Tiếng Việt. Tiếng Việt với
họ là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Và bây giờ đến lượt họ, họ
cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng, tâm tư tình cảm
riêng của mình.
=> Vì vậy, trong thất vọng vẫn len lỏi đâu đó những
hi vọng dù là nhỏ nhoi. Bây giờ hơn bao
giờ hết họ thấu hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam phong: “Truyện Kiều
còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” Hoài
Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà
thơ mới "trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng". Thơ mới cũng như các
nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những
tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam.
Các nhà thơ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các
thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không thể nào tiêu diệt được nó. Họ thấy cần phải
tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho một ngày mai tươi
sáng và tốt đẹp hơn.