A. TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN CỦA QUANG DŨNG:

-Thơ: Bài thơ sông Hồng (truyện thơ 1956), Rừng biển quê hương (in chung với Trần Lê Văn,1957), Mây đầu ô (1986).

-Văn: Mùa hoa gạo (truyện ngắn, 1950), Đường lên Thuận Châu (bút ký 1964), Nhà đồi (truyện ngắn, 1970), Rừng về xuôi (bút ký), Một chặng đường Cao Bắc (bút ký, 1983), Thơ văn Quang Dũng (tuyển, 1988), Tuyển tập Quang Dũng (1999).

B. NHÀ THƠ QUANG DŨNG NÓI VỀ TÂY TIẾN (TRÍCH)

(Nhà thơ Vũ Văn Sỹ ghi theo lời kể của nhà thơ Quang Dũng)

Đối với tôi, những ngày Tây Tiến không hẳn là những ngày in kỷ niệm sâu sắc hơn cả…

Tôi nhập ngũ đúng ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Năm đó tôi hai mươi sáu tuổi…Tôi trở thành phóng viên tiền phương của tờ báo Chiến đấu thuộc Khu II.

Tôi ở báo Chiến đấu đến đầu năm 1947 thì được điều đi học Trường bổ túc Trung cấp (tức Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây)…

Sau lớp học, tôi về Trung đoàn Tây Tiến, tức là Trung đoàn 54. Anh Tuấn Sơn làm Trung đoàn trưởng. Tôi ở đại đội bộ, làm đại đội trưởng…

Tây Tiến là mộ chiến dịch tiến quân từ Khu III, Khu IV lên Khu X tức là Tây Bắc, vùng Điện Biên Phủ. Đây là chiến dịch có ý nghĩa chiến lược…Đầu năm 1947 ta thành lập Trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm các chiến sĩ tình nguyện của Khu III, Khu IV và tự vệ Thành Hà Nội trước thuộc Trung đoàn Thủ đô. Đợt Tây Tiến đầu tiên, ta đánh sâu nhưng phải rút lui ngay, vì lực lượng địch tập trung và mạnh. Tôi đi đợt hai. Nhiệm vụ của chúng tôi là mở đường qua đất Tây Bắc. Một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là công tác dân vận gây dựng cơ sở, tranh thủ sự giác ngộ của nhân dân. Vì thế đi đôi với chức vụ đại đội trưởng, tôi còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào - Việt.

Chúng tôi xuất phát từ Sơn Tây. Lúc đầu rất đàng hoàng đi bằng ô tô…Sau, chúng tôi chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Tiến: mơt rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu người”, rồi rải rác dọc biên cương những “nấm mồ viễn xứ”… tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ, mà sau này vô tình tôi mới nhận ra… Trong bài thơ Tây Tiến, tôi còn viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Hồi ấy trong đoàn chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn, mình lại không giữ vệ sinh, và lại có giữ cũng chả được, nên bộ đội không njững bị ốm, mà còn chết vì sốt rét rất nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt rừng núi. Tiếng cồng ở Tây Tiến thật buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng cồng.

Tôi muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ, thiếu thốn ở miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa đường.

Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu Chanh (tên một tổng của Hà Nam thời Pháp). Tôi làm thơ rất nhanh, làm xong đọc trước Đại hội, được mọi người hoan nghê liệt nhiệt. Nhân có Nguyễn Huy Tưởng, đại biểu nhà văn ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi gửi anh luôn. Sau anh Xuân Diệu cho in ngay ở Tạp chí Văn nghệ. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có chút lý luận gì về thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái hào khí của lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc… Từ Tây Tiến trở đi tôi làm nhiều thơ hơn.

Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, tôi về làm trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52… Rồi làm trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.

Tháng 8 năm 1951, tôi xuất ngũ. Còn cái trung đoàn Tây Tiến của tôi, hình như sau này được phân chia, bổ sung để thành lập sư đoàn 320 thì phải.

​​​​C. ĐOÀN QUÂN TÂY TIẾN VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA BÀI THƠ:

1. (…) Khoảngcuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng, nguyên phái viên phòng quân sự Bắc Bộ và học viên lớp quân sự ở Tông (Sơn Tây) về Phùng từ giã mẹ già, vợ trẻ, con thơ để lên đường gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào để hỗ trợ cho những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng: từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hoá. Bộ đội Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, lao động chân tay cũng lắm, trí thức cũng nhiều. Có những học sinh cũ của các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang như Quang Dũng, Vạn Thắng, Tuấn Sơn, Như Trang… Riêng Tuấn Sơn và Như Trang đã đỗ tú tài và thường được gọi là hai “Cậu Tú”. Bác sĩ Phạm Ngọc Khuê cũng là một trí thức và một thầy thuốc có tiếng. Lại có những nữ chiến sĩ hoa khôi của thủ đô như y tá Phương Lan… Xuất thân “bình dân” thì có anh trước kia bán “phá xa” (lạc rang), có anh trước kia làm đồ tể ở lò mổ. Họ sống với nhau rất vui. Anh đồ tể  có thể biểu diễn mổ bò trong chớp mắt để tổ chức liên hoan. Cô y tá xinh đẹp súng lục đeo bên sườn, phi ngựa như bay. Ai thiếu áo thì đồng đội có thể cởi áo tặng ngay. Cái gian khổ, cái thiếu thốn về vật chất của tây Tiến cũng khủng khiếp. Hồi ấy ở rừng, sốt rét hoành hành dữ dội. Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều. Đại đội trưởng kim nhạc sĩ Như Trang sáng tác bài hát “ iếng còng quân y” tả cái tiếng còng rền rỉ không mấy ngày là không nổi lên ở trạm quân y, báo hiệu một đồng chí qua đời vì sốt rét. Thuốc chữa bệnh rất hiếm, nhất là món Ký ninh vàng. Mỗi buổi sáng, cô y tá bỏ vài viên vào một chai nước. Mỗi bệnh nhân được uống một chén. Thơ Quang Dũng viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” là nói về những cái đầu cạo trọc để khi đánh giáp lá cà, Tây cũng không nắm được chiến sĩ ta. Nhưng “không mọc tóc” còn có nghĩa là sốt rét đến nỗi tóc cũng không mọc được. “Quân xanh màu lá” vì sốt rét như thế mà “vẫn dữ oai hùm” nhiều trận đánh làm cho giặc Pháp kinh hoàng. Như trận Dốc Đẹt (trên đường từ Phố Vàng sang Mường Bi) có những chiến sĩ sốt rét run cầm cập, vẫn nằm nguyên ở vị trí chiến đấu, bắn súng, ném lựu đạn, vần đá từ trên cao xuống tiêu diệt địch. Bọn giặc sống sót phải rút lui xuống Suối Rút.

Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh anh viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ vừa ra đời đã được đọc trong và ngoài quân đội truyền tay, truyền miệng cho nhau. Trong tập “thơ” do nhà xuất bản Vệ quốc quân liên khu III ấn hành năm 1949, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”. Năm 1957, khi đưa bài này vào tập “Rừng biển quê hương” (in chung với Trần Lê Văn – Nhà xuất bản Hội Nhà văn) Quang Dũng bỏ chữ “Nhớ”, chỉ lấy hai chữ “Tây Tiến”

(Trần Lê Văn - Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng in trong Nhìn nhận lại một số hiện tượng Văn học. Báo Giáo viên nhân dân, số đặc biệt (27-28-29-30-31) tháng 7/1989, Tr.41)

2. Cuối xuân 1947, Quang Dũng gia nhập trung đoàn Tây Tiến với cấp bậc đại đội trưởng. Nhiệm vụ của đoàn quân là hành quân lên phía Tây, phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Lào - Việt đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào. Lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, (một số là thanh niên Hải  Phòng) đủ các thành phần: công nhân, trí thức, dân nghèo thành thị, binh sĩ chế độ cũ, có nhà sư, có cả những cô đầu Khâm Thiên, đoàn quân phần lớn nguyên là học sinh của các trường Sư phạm, Bưởi, Thăng Long, những tiểu trí thức Hà Nội mang sẵn trong tâm hồn hạt giống tài hoa và hào hoa đất Thăng Long,chờ bật mầm thành những cây đa, cây đề của giới văn nghệ sau này (các họa sĩ Văn Đa, Quang Thọ, nhà thơ Quang Dũng, nhạc sĩ Doãn Quang Khải, tác giả Vì nhân dân quên mình) …

Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng: từ Mai Châu, Mộc Châu sang Sầm Nưa, cùng bộ đội Lào bảo vệ Sầm Nưa, chống hành động tái chiếm của quân đội Pháp, rồi vòng về qua phía Tây Thanh Hóa. Tinh thần đánh địch càng cao thì gian khổ, thiếu thốn như càng ghê gớm để thử thách ý chí của họ: Nhiều trận đánh phục kích, giáp lá cà làm giặc Pháp kinh hồn như trận Dốc Đẹt (trên đường từ Phố Vãng sang Mường Bi), trận chiến khốc liệt ở Xóm Trại, Bãi Sang, Chiềng Sại…có những chiến sĩ bị sốt rét, run cầm cập vẫn không rời trận địa. Không còn sức vần đá lăn xuống thì ném lựu đạn, không còn sức ném lựu đạn thì nằm nguyên chỗ, bóp cò chặn địch cho đồng đội lao xuống đánh giáp lá cà. Đoàn quân không mọc tóc vì sốt rét tóc không mọc được, quân xanh màu lá không chỉ vì lá ngụy trang xanh hay màu quân phục mà còn vì nước da tái mét vì sốt rét, thiếu thuốc, thiếu ăn. Đóng quân trong rừng, ở làng bản ven rừng thì sốt rét hoành hành, thuốc men cạn kiệt. Mỗi sáng, cô y tá bỏ được vài viên ký ninh vàng vào bình nước lớn, mỗi bệnh nhân được uống một hai chén làm phép. Số người chết bệnh do thiếu thuốc men, thiếu dinh dưỡng nhiều hơn chết trận. Khu đóng quân tản mát các xóm nên khi có người qua đời, phải lấy tiếng cồng làm hiệu, để bà con trong xóm đến giúp đỡ chôn cất, để những chiến sĩ còn khỏe về lán quân y tiễn đưa đồng đội. Giữa đêm vắng nghe hiệu cồng không khỏi có người tự hỏi: bao giờ thì đến tiếng cồng báo tử của mình? Đại đội trưởng Như Trang nằm bệnh xá, sáng tác bàiTiếng cồng quân y. Đài tưởng niệm ở Châu Trang hiện nay, bên cạnh lư hương có hình chiếc cồng. Những chiếc cồng di sản văn hóa dân tộc trở thành đồ tế khí với các liệt sĩ Tây Tiến, sau khi chúng đi vào thơ nhạc, vào hội họa, điêu khắc của những đồng đội sống sót… Gỗ lạt đóng quan tài rất thiếu vừa không đóng kịp, đành bó chiếu đem chôn. Rồi đến chiếu cũng thiếu, anh em có sáng kiến chẻ tre buộc bó thân liệt sĩ. Hội mẹ chiến sĩ thị trấn Vụ Bản, Lạc Sơn quyên góp được trăm đôi chiếu, đem đến. Phát biểu trước hàng quân, khi bà mẹ đại diện nói đến câu: bà con gom góp chiếu tặng lại đơn vị để… để… thì khóc òa, không cần nói hết mà ai cũng hiểu!

Đài tưởng niệm đặt ở Châu Trang, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn Hòa Bình là đúng, khi quả đồi cạnh quân y xá năm nào đã phủ kín gần hai trăm ngôi mộ những chiến sĩ trẻ áo bào thay chiếu anh về đất… (tư liệu:Tây Tiến, một thời và mãi mãi, NXB Hà Nội, 2008. Thành ủy Hà Nội-Ban Tuyên giáo, Ban liên lạc cựu chiến bình Tây Tiến chịu trách nhiệm xuất bản)

Với bao kỷ niệm Tây Tiến bi tráng người sống có, người chết có, Quang Dũng cùng đơn vị làm xong nhiệm vụ những chiến sĩ quốc tế đầu tiên của Quân đội nhân dân ở biên giới Việt Lào trở về Hòa Bình chấn chỉnh lại đội ngũ. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948, rồi chuyển về đơn vị khác. Về đến Phù Lưu Chanh, Quang Dũng bần thần ngồi nhớ đồng đội, bồi hồi bao cảm xúc, ông viết một mạch bài thơ Nhớ Tây Tiến (sau Q.D. đổi là Tây Tiến). Sau đó, ông về Bộ tư lệnh Liên khu III làm trưởng tiểu ban Văn nghệ thuộc phòng Chính trị Liên khu cho đến ngày tiếp quản thủ đô 10-10-1954.

(Nguồn: Nhà thơ Vân Long - Quang Dũng, bóng mây qua đỉnh Việt)

3. Bài thơ buổi đầu trình làng: Theo tạp chí Văn nghệ số 11-12 tháng tư, tháng năm năm 1949 - Văn nghệ Bộ Đội của Hội Văn Nghệ Việt Nam, Thư ký Toà Soạn: Nguyễn Huy Tưởng - thì bài thơ in ở trang 17, với nhan đề NHỚ TÂY TIẾN, không có đoạn thơ thứ 2 với 8 câu “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”, với bút danh QUANG DŨNG (Đoàn quân nhân văn nghệ L.K.3) và “Pha Luông” in là “Pha Lương” , “dáng kiều” in là “giáng kiều”

D. PHÍA SAU BÀI THƠ TÂY TIẾN (TRÍCH)

(Theo lời kể của nhạc sĩ Quang Vĩnh - con trai cả của cố nhà thơ Quang Dũng) Tây tiến đã "bị" sửa như thế nào?

Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây tiến năm 1947 và hành quân lên Tây Bắc với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội nước bạn để bảo vệ vùng biên giới Việt Lào.

Ban đầu, bài thơ được Quang Dũng đặt tên là Nhớ Tây Tiến. Ông sáng tác rất nhiều, nhưng không hiểu sao lại trăn trở nhất với riêng bài thơ này.

Ông Quang Vĩnh kể lại, nhiều lần, ông thấy cha mình ngồi rất lâu trước một cuốn sổ tay băn khoăn về cái tít vỏn vẹn có 3 chữ ấy. Có lẽ Tây tiến là một kỷ niệm đáng nhớ nhất trong cuộc đời binh nghiệp của Quang Dũng nên bài thơ thấm đẫm linh hồn đoàn quân hào hoa ngày nào, ông luôn muốn có một sự chỉn chu đến từng câu chữ.

Cuối cùng, Quang Dũng lấy bút bỏ đi chữ "Nhớ". Dù còn nhỏ, nhưng ông Vĩnh cũng buột miệng hỏi sau khi thấy cha "bóp trán" hàng năm trời mà chỉ sửa được vọn vẹn duy nhất một chữ: "Chữ 'Nhớ' đâu có ảnh hưởng nhiều đến vần điệu bài thơ sao bố nghĩ gì mà lâu thế?". Quang Dũng chỉ cười mà rằng: "Tây tiến, nhắc đến là đã thấy nỗi nhớ rồi. Thế nên để chữ Nhớ là thừa. Không cần thiết nữa con trai ạ".

Đến quãng năm 1956, có lẽ vẫn chưa "dứt duyên" nổi với Tây Tiến, một buổi sáng Quang Dũng lại mang cuốn sổ thơ của mình ra "ngâm cứu". Rồi như cần đến một người tri kỷ, Quang Dũng gọi con trai lại và hỏi: "Con đọc cho bố nghe cả bài thơ rồi cho nhận xét xem nó thế nào". "Khi ấy tôi còn rất nhỏ" - ông Vĩnh nói - "mới học lớp 7 nên nào biết cảm nhận văn chương thơ phú nó ra làm sao, thậm chí đọc bài thơ ấy còn thấy hơi... ngang ngang".

Tuy vậy, nhưng ra vẻ con nhà nòi, ông Vĩnh cũng "phán" bừa một câu rằng: "Con thấy câu Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người nghe nó cứ "chối" thế nào. Hay bố thay cái địa danh khác vào nghe cho nó hợp chứ Mường Hịch nghe nặng nề quá".

Thực ra lúc ấy ông Vĩnh chỉ thấy nó có vẻ không vần điệu lắm với khổ thơ trên, nhưng nghe vậy Quang Dũng ngần ngừ một lát, rồi suy tính thế nào lại mỉm cười nói, thế thì không ổn con trai ạ.

Mãi về sau ông Vĩnh mới vỡ lẽ ra cái sự ngần ngừ không ổn ấy bắt nguồn từ một nguyên do, Mường Hịch còn là một địa danh gắn liền với kỷ niệm bất ngờ của cha mình. Trong một lần hành quân, đoàn quân Tây tiến đã dừng chân ở Mường Hịch, gần sông Mã. Người dân nơi đây kể cho Quang Dũng về một con cọp đã thành tinh chuyên bắt người ăn thịt. Rất nhiều dân lành đi rừng đã bị con cọp này vồ mất xác.

Thấy bộ đội có súng nên một số người dân ngỏ lời nhờ bộ đội Tây tiến diệt trừ giúp. Vốn là người gan dạ, khỏe mạnh, mới nghe thế máu mã thượng trong người Quang Dũng đã bốc lên. Ông gọi một số anh em trong đơn vị lại rồi lấy một con lợn trói tại gốc cây làm mồi bẫy, còn bản thân cùng anh em chia nhau nấp đợi hổ về.

Nửa đêm, dân làng nghe thấy mấy tiếng súng vọng lại từ rừng già, rồi sau đó là tiếng hổ gầm điên loạn, gần sáng thì thấy Quang Dũng dẫn đầu một tốp bộ đội hớn hở tìm về, người ngợm ướt đẫm sương.

Mãi sau này người ta mới biết, lúc bị thương con hổ điên cuồng chống trả, Quang Dũng phải nổ mấy phát súng mới kết liễu được nó. Vậy mà cái địa danh đáng nhớ ấy, suýt nữa thì ông Vĩnh cắt mất của cha mình.

E. CẢM NHẬN ĐOẠN THƠ SAU TRONG BÀI “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG:

“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân thù và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc còn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng.

Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng Chí” (Chính Hữu), “Nhớ” (Hồng Nguyên)… và “Tây Tiến” của Quang Dũng.

Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và  núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang.

“Tây Tiến” là phiên hiệu của một đơn vị bộ đội hoạt động tại biên giới Việt – Lào, miền Tây tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Quang Dũng là một cán bộ đại đội của “đoàn binh không mọc tóc” ấy, đã từng vào sinh ra tử với đồng đội thân yêu.

Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.

Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải. Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.

Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”

Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”.

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.

Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.

Bài viết gợi ý: