Tìm hiểu tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận
Đặt vấn đề:
Nhà thơ Huy Cận đã từng viết về mình:
Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương chẳng biết đã nguôi chưa
Hay lòng chàng cứ tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi
Nỗi sầu trong bài thơ của Huy Cận là nỗi sầu sông núi, sầu vũ trụ và thi sĩ gọi đó là nỗi sầu vạn kỉ. Tiêu biểu cho nỗi sầu ấy là bài thơ Tràng Giang rút trong tập thơ đầu tay – tập thơ “Lửa thiêng” (1940) của Huy Cận
Cảm hứng thơ trong Tràng Giang là cảm hứng không gian, cụ thể là cảnh sông nước. Điều này thể hiện trong nhan đề :”Tràng Giang” nghĩa là sông dài. Hai từ hán việt ghép lại gợi những dòng trường giang ở Trung Quốc xa xôi từng là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân thi sĩ xứ ngoài. Nhan đề gợi sắc thái cổ kính cho thi phẩm. Mặt khác lấy âm vang cho thấy dòng sông ấy không chỉ mở về chiều dài mà còn cả chiều rộng, nó vừa là trường giang vừa lại đại trường giang
1. Lời đề từ
Lời đề từ được trích từ câu thơ chính của Huy Cận trong một bài thơ khác
Lâng lâng chiều nhẹ ghé muôn tai
Trong bóng chiều như mờ tiếng ai
Thổi lạc hương rừng cơn gió đến
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Lời đề từ đã gói gọn chủ đạo của tâm hồn thi sĩ. Theo lời Huy Cận kể lại, cảm hứngcâu thơ được gợi ra từ những buổi chiều của nhà thơ đứng ở bờ Nam bến chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mông sông nước, nghĩ về những kiếp người nổi trôi nhỏ bé. Từ dòng sông Hồng cụ thể nghĩ về Tràng Giang mênh mông, từ nỗi buồn riêng mà nghĩ về cả kiếp người. Đó là nguồn cảm hứng chi phối tâm hồn nghệ sĩ ở trong bài thơ này.
2. khổ 1
Ngay những câu thơ đầu nhiều người đọc bắt gặp những hình ảnh quen thuộc nơi sông nước
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Có lẽ khi viết những câu thơ này, Huy Cận đã tiếp thu nghệ thuật diễn tả trong câu ca dao
Sóng bao nhiêu gợn da nhiều sầu bấy nhiêu
Ca dao dùng phép so sánh “bao nhiêu – bấy nhiêu” còn trong thơ của Huy Cận ta nhận thấy mối liên hệ ngầm của các từ ngữ: có bao nhiêu gợn sóng trên dòng Tràng Giang là có bấy nhiêu nỗi buồn của nghệ sĩ. Điều đáng nói là sắc thái của nỗi buồn ấy: buồn điệp điệp. Đó là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng tha thiết dai dẳng
Trên dòng sông Tràng Giang là hình ảnh quen thuộc: “con thuyền xuôi mái nước song song” trong văn học truyền thống, con thuyền vốn là hình ảnh để chỉ lênh đênh trôi dạt
Thân em như chiếc bách giữa dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời (L Bạch)
Con thuyền trên dòng Tràng Giang thụ động, phó mặc trôi theo dòng nước (xuôi mái) mà vẫn hờ hững với dòng nước ( nước song song). Thuyền – nước là những sinh vật vốn không thể tách rời thậm chí một nhà thơ đã viết
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
– Xuân Quỳnh-
Cái tôi thơ mới của Huy Cận đã nhận ra cái vô tình ẩn chứa bên trong các sinh vật vốn hữu tình
Câu thơ gợi ra những con sóng lan tỏa theo chiều rộng; câu hai gợi những luồn nước rong ruổi mãi về cuối trời. Hai câu thơ thấp thoáng bóng dáng ý thơ Đỗ Phủ tả cảnh sông nước.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lại
(Ngàn cây bát ngát lá rung xào xạc
Dòng sông dằng dặc nước cuồn cuộn trôi)
Cùng dùng phép đối nhưng nếu Đỗ Phủ sử dụng đối thì Huy Cận dùng đối xứng. Cùng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả “Đăng Cao” đặt ở giữa câu thì tác giả “Tràng Giang” lại đẩy xuống cuối câu. Vì thế mà thơ Huy Cận tạo âm hưởng không dứt. Đến câu thơ ba
Củi một cành khô lạc mấy dòng
“củi” là mẩu rơi vãi, khô gãy của thân cây. Từ một cành cây xanh tươi nơi núi rừng đầu nguồn đến cành củi khô lạc loài, thân phận của cỏ cây đã làm mấy lần tang thương mây nắng đã mấy lần trôi dạt đổi thay. Kiếp củi hay chính là kiếp người trong xã hội đầy bế tắc. Nhà thơ đặc tả cảnh cành củi với những từ ngữ gây ấn tượng.
Một (đơn độc), cành (nhỏ nhoi), khô (khô héo), lạc (trôi dạt vô hướng). Cảm nhận cành củi, hỹ ngước lên dòng Tràng Giang ở câu một. Ta bỗng nhận ra tương phản gay gắt giữa cái mênh mông của đời và sự nhỏ ngoi của kiếp người. Sự tương phản còn xoáy vào trong câu thơ thứ tư: “giữa mấy dòng”cành củi càng thêm nhỏ bé. Nhỏ bé tội nghiệp nổi lênh đênh mà đầy kiêu hãnh – “ cái tôi lạc loài bơ vơ của thơ mới đã tìm thấy sự đồng điệu vớ hình ảnh caanfh củi khô lạc loài trong câu thơ của Huy Cận” ( Xuân Diệu)
3. Khổ 2
Từ mặt nước Tràng Giang nhà thơ hướng về bến bờ trái đất và lắng mình trong tiếng thơ chiều như có như không:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
“ cồn” vốn đã vắng, “ cồn nhỏ” càng vắng hơn. Hai tính từ (lơ thơ, đìu hiu) bao bọc ở hai câu đầu khiến câu thơ không chỉ gời không gian thưa thớt mà còn vắng vẻ, mà còn lạnh lẽo đến dợn người. Huy Cận từng tâm sự, ông học được từ “đìu hiu” trong chính phụ ngâm
Non kì quạnh quẽ trăng treo
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phụ trăng dõi dõi theo
Xuân Diệu cũng từng có một từ “đùi hiu”thật đắt
Rặng liễu đùi hiu đứng chịu tang
Từ “đâu” trong câu thơ thứ hai của Huy Cận đã dẫn tới những cách hiểu khác nhau có lẽ hợp lý hơn : âm thanh thưa thớt, yếu ớt của chợ chiều đã vãn từ chợ xa vọng lại càng tăng thêm cảm giác của Tràng Giang là nơi chốn bị bỏ quên. Trái đất này này thủ pháp lấy động tả tĩnh của văn học thời đại đã phát huy hiệu quả của nó trong câu thơ. Nhiều người đã khen hai câu thơ sau là tuyệt bút:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bên bến cô liêu
Không gian trời đất đầy những “ xuống”, “lên”, “dài”, “rộng”. Đó là thứ không gian ba chiều , khác hẳn với không gian hai chiều trong thơ cổ. Cụm từ “nắng xuống trời lên” gợi cảm giác đàn hồi: nắng xuống đến đâu trời lên đến đó và nó hoàn tất bởi “sâu chót vót”. “chót vót” vỗn là một tính từ tả độ cao (núi cao chót vót chon von – Xuân Diệu). Vào thơ Huy Cận từ này thêm khả năng diễn tả chiều sâu. “Sâu chót vót” – độ sâu theo cái nhìn ngước lên. Câu thơ gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh : nắng lên đỉnh trời độ xoáy xuống tạo thành một cái vực vũ trụ. Theo chiều không gian, nỗi buồn không chỉ tỏa rộng mà còn khoét sâu đến rợn người có lần chính Huy Cận đã phải thốt lên.
Không gian ơi! Xin hẹp bớt mênh mông
Khổ thơ khép lại bằng những hình ảnh đưuọc liệt kê: sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
4. Khổ 3
Nếu khổ moojt gây ấn tượng về sự vô định của kiếp người sự vô hạn của vũ trụ thì khổ ba là sự đứt nối của giao cảm, dồn người và sự cô đơn bế tắc
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Nhà thơ mượn lại hình ảnh bèo truyền thống nhưng cách diễn đạt gợi tầng lớp, dợn ngợp hơn. Có cái gì đó thật ngơ ngác trong hai câu “về đâu”
Mênh mông một không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh bãi vàng
Sự “mênh mông”phủ lên khắp không gian. Trong cái mênh mông ấy là sự thiếu vắng những phương tiện để người đến với người, người đến với đời. Những điều khao khát của nhà thơ thật nhỏ nhoi, thậm chí là tối thiểu “đò ngang”, “cầu gợi chút niềm thân mật”. Câu cuối gợi ra hình ảnh hai bờ sông song song chạy dài tít tận chân trời. Tràng Giang hiện ra như một thế giới hoang đến giờ vẫn thế. Đó không phải là cái thanh vắng mà ta thường thấy trong văn học hiện đại:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(bà Huyện thanh Quan)
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Nguyễn Khuyến)
5. khổ 4
Mây trắng hết lớp này đến lớp khác đùn lên như những trái núi khô, ánh trời chiều như rắc bạc trên đỉnh núi. Chữ “đùn” gợi nhắc câu thơ Đỗ Phủ
Lưng trời sóng dựng lòng sâu thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Trong buổi chiều ấy, thiên nhiên càng phô vẻ kì vĩ của mình
Chim ngheeng cách nhỏ bóng chiều sa
Hình ảnh những con chim chiều vốn quen thuộc trong thơ ca
Chim bay về nui tối rồi
(ca dao)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mới
(bà huyện Thanh Quan)
Những cánh chim ấy mang thông điệp thời gian. Cánh chim trong câu thơ của Huy Cận là biểu tượng của sự sống, hiện thân của cái tôi thơ mới. Cánh chim nghiêng nghiêng bay về tổ ấm bị bủa vây bốn bề bởi “mây cao đùn núi bạc”. Bóng chiều bỗng chở lên có hình có khổi, được cảm nhận ra đôi cánh nhỏ bé. Có cảm giác cánh chim không thể nào thoát khỏi bóng chiều đang bao phủ từ tứ phía. Mặt khác: “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Ta bỗng nhận ra sự sống thì thật nhỏ nhoi nhưng nỗi cô đơn của sự sống thì thật khổng lồ
Lòng quê dượn dợn vời con nước
Xét về mặt từ ngữ, “dợn dợn” là gợi “ vời vợi” là xa “ con nước” là con sóng. Cho nên câu thơ “ Lòng quê…..”mang dáng dấp câu thơ mở đầu
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Nhưng ở đây, nhịp sóng đã khác xa. Nó khởi phát từ nỗi lòng của kẻ nhơ quê. Lòng quê gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều nhưng mãnh liệt hơn cả là khí phóng tầm mắt nhìn ra con nước. Chữ “vời”gợi nhắc đến câu Kiều :
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà
Bài thơ kết thúc bằng câu
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Câu thơ in đậm bóng dáng của ý thơ Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc Lâu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yêu ba giang thượng sử nhân sầu
( Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Xưa, Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mờ mịt mà nhớ nhà cách xa. Nay Huy Cận đứng giữa khung cảnh vô tình lòng thèm khát quê hương như nỗi niềm ấm áp. Xưa, Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên nhưng người tiên đã cưỡi hạc vàng bay về trời, lòng thi sĩ khát khao về hiện tại, nay Huy cận giữa tràng giang mênh mông, giữa một xã hội thị dân với những mối quan hệ truyền thống bắt đầu rạn nứt, thi sĩ hướng về quê nhà như cõi niềm ấm áp. Nếu tác giả “Hoàng hạc lâu”khao khát thực tại thì tác giả “Tràng Giang” khao khát tình người.
· Giá trị
- Tràng giang như hầu hết các sáng tác của Huy Cận trước cách mạng mang cảm hứng không gian khá rõ nét
- Ẩn chứa bên rong bức tranh thiên nhiên đẹp là nỗi u hoài của một cái tôi thơ mới bơ vơ thèm khát tình người.
- “Tràng Giang là lời ca non sông đất nước, dọn đường cho tình yêu tổ quốc sau này” (Xuân Diệu)
ĐỀ1
"Tràng Giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, dọn đường cho tình yêu giang sơn Tổ Quốc"-Xuân Diệu.
Lời đề tự “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” đã khắc chạm vào thời gian và hồn người hơn nửa thế kỷ qua. “Tràng giang” là bài thơ kiệt tác trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buỏi chiều thu năm 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm sông Hồng mênh mông lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ lặng ngắm cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Khổ thơ đầu nói về “sóng gợn”, con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Tràng giang – sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang… ở đây là dòng sông Hồng Hà thân yêu, dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp “buồn điệp điệp”, như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo “nước song song”. Cặp từ láy: “điệp điệp”, “song song” gợi tả một nơi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. hình ảnh cành củi khô vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. “Củi một cành khô” nhỏ bé tầm thường, từ rừng xa xôi trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên “cái ý vị mới mẻ” của “Thơ mới”. Nó biểu tượng cho một kiếp ngời phù du, bé nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu, về đâu?
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành kho lạc mấy dong”
Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vãn cân xứng, hài hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng tràng gian. Huy Cận nói đến nhiều “vạn cổ sầu”, “buồn thiên thu”, ở đây ông lại viết “sầu trăm ngả”. Cả cõi dương và cõi âm? “Sầu trăm ngả” như tỏa rộng và phủ lên những kiếp người đau thương. Các số từ trong 3 vần thơ “sầu trăm ngả”, “củi một cành khô”, “lạc mấy dòng” đã làm thấu cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé, hữu hạn, còn sự đau khổ, sầu thương thi to lớn, vô hạn.
Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Vần lưng “nhỏ - nhỏ”, kết hợp với láy âm “lơ thơ” và “đìu hiu”, âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về mộtnỗi buồn hiu hắt cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc về với cổ thi: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo – Bên Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”(Chinh phụ ngâm). “Lơ thơ tơ liễu buông mành…”(“Truyện Kiều”).
Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xác xa vắng lại được nhân lên nhiều lần. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác “vãn chợ chiều” từ một làng xa cũng không còn nữa. Từ “đâu” biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi buồn lẻ loi cô quạnh chứa chất trong lòng:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Người ta thường nói “cao chót vót”, “sâu thăm thẳm” nhưng Huy Cận lại viết “sâu chót vót” để làm nổi bật hai tiểu đối: “nắng xuống” và “trời lên” kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp. Dòng sông thì “dài”, bầu trời thì “rộng”, và bến đò thì “cô liêu” xa vắng:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Song dài, trời rộng, bến cô liêu”
“Tràng giang” là thi phẩm đại diện sáng chói, lung linh nhất của “lửa thiêng”. Nói đến “Tràng giang” là nói đến “Lửa thiêng”. Nói đến “Lửa thiêng” là nói đến nỗi buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngâm chứa chất “cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế!”(Xuân Diệu).
Câu hát “bèo dạt mây trôi” trong dân ca Quan Họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên dòng tràng giang làm biểu tượng cho sự hợp tan chia lìa trên dòng đời cua rnhững kiếp người truân chuyên lưu lạc:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có một bóng dáng con người. Câu thơ phủ định bằng điệp từ “không” liên tiếp “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”, chỉ có màu “vàng” của bãi tiếp nối với màu “xanh” của bờ vô tận. Cái buồn bà cô đơn của tâm trạng được diễn tả trong một không gian “mênh mông” và “lặng lẽ”.
Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ cổ gắn liền với tình quê, cố hương:
“.. Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
(“Qua Đèo Ngang”)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ mờ trên sông Hán Dương buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
(Tản Đà dịch)
Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê: một cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời non nước,
Không khói hoàng hon cũng nhớ nhà”.
Câu thơ nên hoạ, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn Đường như thấm vào câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khác hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê. Lòng quê: “Song sa vò võ phương trời – Nay hoàng hôn đãlại maii hôn hoàng”(Truyện Kiều)… “kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn” (“Chiều hôm nhớ nhà”) - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn mình vào “Tràng giang”, lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo “vời con nước” mà “nhớ nhà”, nhớ quê hương. Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn “nhớ nhà”. Rõ ràng tình quê trong Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn “nhớ nhà”, nhớ trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Nói rằng thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn người để vươn tới cái cao cả. Đọc “Tràng giang” ta cảm nhận sâu thêm chân lý nghệ thuật ấy.
“Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó là ngọn lửa thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vân thơ mỹ lệ, hàm súc. “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” như Xuân Diệu đã nói. Có “Tràng giang” mới có “Đất nở hoa” và những “Bài thơ cuộc đời” đằm thắm nồng hậu… sau này. Đọc “Tràng giang” ta thêm yêu, thêm nhớ đất trời sông núi quê hương.
ĐỀ 2
Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà con là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là một bài ihơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình.
Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm 1940. Đúng như nhà thơ Huy Cận từng nói, bài thơ này được sông Hồng, quãng Chèm Vẽ và những con sông khác gợi tứ. nhưng nó là bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên.
Trước hết ta chú ý đầu đề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang", để ta không lầm với sông Trường Giang (Trung Quốc), hay con sông dài nói chung. Trong Tiếng Việt “tràng giang" thường nằm trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận mà trống rỗng khiến người ta chán chường.
Mở đầu bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ, tuy rất nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thuở. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song" với nhau chứ không gắn bó với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào? Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào các vật nhỏ: sóng, thuyền, củi khô.
Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô", một mảnh rơi gẫy, khô xác của thân cây.
Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây không chỉ thuyền buồn, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn.
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ khổ đầu:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Một cái cồn nhỏ (lại nhỏ!) lơ thơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu, càng thêm vắng vẻ buồn bã hơn, như bị cuộc sống bỏ quên. Huy Cận nói, ông đã học được từ "đìu hiu" trong câu thơ Chinh phụ ngâm “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” cũng nói về cảnh vắng vẻ, không người. Âm thanh của cuộc sống náo động của các phiên chợ, của làng quê nghe rất xa vắng, chợ chiều làng xa mà lại đã càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng: nắng xuống, trời lên không chỉ gợi ra khung cảnh nắng chiều mà bản thân hai hướng lên xuống như không ăn nhập với nhau, và sông dài, trời rộng càng tăng thêm cái vắng vẻ của bến sông. Cô liêu là vắng vẻ. Trong hai dòng này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố vốn không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn. Giữa các yếu tố đó đều có đặt dấu phảy (,).
Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Vẫn các sự vật đặt bên nhau: bèo hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng hai bờ sông mênh mông không cầu, không đò ngang, tạo thành một thế giới không liên hệ . Từ sóng, thuyền, củi, dòng trôi, đến cồn nhỏ, làng xa chợ chiều, rồi nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng, bến vắng… mọi vật có, nhưng không vật nào có ý tìm nhau, đến với nhau, cần đến nhau.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi bạc. Chữ “đùn" mượn từ thơ cổ của Đỗ Phủ, nói rằng mây trồi ra, lừng lững như núi trên trời có một vẻ đe doạ. Cánh chim bé nhỏ (lại bé nhỏ!) nghiêng nghiêng về tổ ấm được cảm nhận như chịu sức nặng của bóng chiều đè xuống. Bóng chiều mông lung bỗng trở thành hình có khối như có thể cảm nhận được bằng đôi cánh nhỏ. Và cánh chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình?.
Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ hương tâm, chứ không phải tấm lòng chất phác, quê mùa. Dợn là gợi lên, như ta nói sóng dợn chỉ một chất lỏng xao động chuyển động dâng lên, uốn xuống. Dợn dợn là thấp, ý nói hô ứng với mấy chữ “sóng gợn”, “điệp điệp” ở dòng đầu bài thơ. Chính vì vậy mà nhà thơ phiền lòng khi thấy người ta đọc chệch thành dờn dợn hay rờn rợn làm mất nghĩa câu thơ.
Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi phóng tầm mắt nhìn con nước. Chữ vời, cũng hay, ta cảm thấy như gặp ý câu Kiều:
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?
Lòng nhớ quê được gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều, nhưng mạnh hơn là từ con nước. Và nhà thơ kết thúc bài thơ bằng câu: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Viết về câu thơ này chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản Đà địch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Nhà thơ dựa ý thơ Thôi Hiệu để nói ý mình.
Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng Huv Cận buồn hơn Thôi Hiệu, bởi Thôi Hiệu trông “khói sóng" mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược lại, “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thực ra, ai buồn hơn ai làm sao mà xác định được. Điều quan trọng là Huy Cận có một ý thơ khác. Xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi lên cảnh mù mịt mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô, lòng khát khao một cõi quê hương thực tại. Nay Huy Cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, dợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một đằng là ý thức về thực tại, một đằng là ý thức về tình người.
Tràng giang là một bài thơ buồn, dòng nào cũng buồn. Cái buồn toát ra từ những vật bé mọn, như những kiếp người cô đơn, lạc lõng giữa không gian bao la. Nhưng Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong cảnh đẹp, giàu màu sắc (núi bạc, bờ xanh, bãi vàng), nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra vô tận (buồn điệp điệp, sâu chót vót, sông dài, trời rộng…), nhiều tương phản, nhiều động từ chỉ sức sống rộn ràng: sóng gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên… Cái buồn của bài thơ rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng mọi vật chết chóc, ngưng đọng. Cái buồn như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp thiếu tình người, từ một sự mất mát các mối liên hệ có tính phổ quát gây nên. Một cái buồn đậm màu triết lí. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi thay của đờí sống xã hội: xã hội cộng đồng truyền thống với vô vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay vào một xã hội đô thị với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.
ĐỀ 3
Bức tranh Tràng giang và nỗi niềm của Huy Cận
Huy Cận (1919 – 2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ về cảnh thiên nhiên con người sông nước trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tràng giang” được ông sáng tác vào năm 1939 đăng lần đầu tiên trên báo “Ngày nay”, sau đó in vào tập “Lửa thiêng”. Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó gợi lên hình ảnh những con sóng lồng lên nhau và dòng nước cuốn trơi đi xa. Trên dòng dông hình ảnh con thuyền lững lờ xuôi mái nước song song. Dòng sông rộng lớn là thế sao lòng người đầy ắp nỗi buồn. Thuyền và nước luôn gắn liền với nhau thuyền đi được là nhờ nước xô đi thế mà trong thơ Huy Cận lại thấy thuyền và nước chia lìa, bị xa cách nghe đầy xót xa gợi trong lòng nhà thơ buồn trăm ngả, “Trăm” là số nhiều chỉ nỗi buồn dài vô hạn. Hình ảnh “củi khô” chỉ sự cô đơn nhỏ bé, “lạc” mang nỗi buồn vô định trôi nổi, lênh đênh trước cảnh thiên nhiên rộng lớn gợi cho người đọc thấy được cảnh cô đơn trống vắng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: “bến cô liêu”.
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông còn người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng trước mắt nhà thơ lại hiện ra những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh bèo trôi dạt gợi sự bấp bênh, trôi nổi không biết đi đâu về đâu vô định hướng giữa dòng sông. Ở đây tác giả không chỉ một hay hai cái bèo mà “hàng nối hàng”. Hình ảnh gợi cho người đọc đau xót, cô đơn trước thiên nhiên mênh mông rộng lớn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “…không…không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Hết nhìn xung quanh, nhìn ra xa và nhà thơ lại tiếp tục nhìn ra bầu trời:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Câu thơ giúp người đọc hình dung ra những núi mây trắng xóa được ánh nắng chiếu vào nhìn như được dát bạc. Động từ “đùn” sử dụng rất tài tình những đám mây như có nội lực bên trong từng lớp mây cứ đùn ra đùn mãi.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Hai câu thơ cuối chúng ta bắt gặp nét tâm trạng hiện đại của nhà thơ:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Từ láy “dờn dợn” kết hợp với cụm từ “vời con nước” cho thấy nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Cả bài thơ vừa mang nét cổ diển vừa mang nét hiện đại, ngôn ngữ nhẹ nhàng sâu lắng hình ảnh sáng tạo quen thuộc: sông, nước, thuyền…đã tạo lên bức tranh nhiên nhiên rộng lớn nhưng lòng người lại nặng trĩu nỗi buồn, nỗi nhớ. Bài thơ còn thể hiện niềm khát khao hòa hợp giữa những con người và tình yêu quê hương đất nước kín đáo của nhà thơ