Giới thiệu sơ lược khái niệm tình huống và xác định tình huống trong Chiếc thuyền ngoài xa
+ Khái niệm tình huống: là cái hoàn cảnh riêng chứa đựng một sự kiện đặc biệt nào đó có tác dụng quyết định đối với mục đích tái hiện đời sống và bộc lộ ý tưởng của nhà văn. Thôngthường, có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức.
+ Tình huống trong truyện ngấn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là tình huống nhận thức trước những hiện tượng đầy nghịch lí của cuộc sống: một người nghệ sĩ nhiếp ảnh từ Hà Nội tìm vào vùng biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành công khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ. Nhưng ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo hành trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy.
b) Phân tích, khái quát hành trình nhận thức của nhân vật Phùng qua các tình huống truyện
– Hành trình nhận thức về cái đẹp, về nghệ thuật: Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh từ Hà Nội lặn lội vào vùng biển này để chụp một bức ảnh nghệ thuật "hoàn toàn là tĩnh vật", ởđây, anh đã có những phát hiện đầy bất ngờ về cuộc sống và cái đẹp:
+ Phát hiện đầu tiên của Phùng là vẻ đẹp của một chiếc thuyền ngoài xa bất ngờ xuất hiện trong khung cảnh thơ mộng của buổi bình minh: "Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích". Nó mang đến cho người nghệ sĩ nhiếp ảnh niềm hạnh phúc kì diệu khi được thấy "cái đẹp chính là đạo đức" và được sống với "khoảnh khắc trong ngần" của tâm hồn. Anh ngỡ mình đã tìm thấy một vẻ đẹp thanh khiết, toàn bích của cuộc sống nơi đây và gói trọn nó trong những thước phim của chiếc máy ảnh. Anh chắc mẩm rằng mình đã có thể mang về Hà Nội "cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn" mình và cả "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh".
+ Nhưng khi tới gần, chiếc thuyền ngoài xa ấy bày ra những nghịch lí bất ngờ; những sự thực trần trụi, đau đớn… Bước xuống từ con thuyền đẹp như mơ lại là một đôi vợ chồng hàng chài thô kệch, xấu xí: "Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. […] Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ". Sự xuất hiện của họ đã phá vỡ "cấu trúc" hoàn hảo của ngoại cảnh – bằng vẻ xù xì, thô nhám của đời thường trần trụi,
+ Chưa hết ngạc nhiên, Phùng đã phải bàng hoàng khi chứng kiến cảnh tượng người đàn ông hàng chài đánh đập vợ một cách tàn nhẫn và càng kinh ngạc hơn khi người đàn bà bị đánh kia "không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy".
+ Anh chưa kịp chạy tới thì đã thấy thằng Phác – đứa trẻ mà anh vẫn tưởng là "từ trên rừng xuống" đột nhiên xuất hiện và "lập tức nhảy xổ" vào "lão đàn ông". Và hàng loạt sự kiện bất ngờ diễn ra trước mắt anh như những thước phim câm: thằng bé giật lấy chiếc thắt lưng quất thẳng vào ngực người đàn ông; còn lão ta "dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát".
+ Chuỗi nghịch lí ấy của hiện thực đã khơi lên trong tâm hồn người nghệ sĩ nhiều cảm xúc trái ngược – từ niềm hạnh phúc ngỡ ngàng trước một vẻ đẹp hoàn hảo đến cảm giác sững sờ, kinh ngạc vì sự thật trần trụi, tàn nhẫn và cả những xót xa, bất bình, phẫn nộ.
Chúng đập mạnh vào trái tim của người nghệ sĩ. Anh không chỉ "vứt chiếc máy ảnh xuống đất" để lao tới bênh vực người đàn bà hàng chài không quen biết mà còn cảm nhận nỗi bất hạnh của mẹ con chị bằng tất cả niềm xót xa, thương cảm. Khi phải chứng kiến cảnh tượng đó một lần nữa, anh đã thẳng tay trừng trị gã chồng vũ phu "không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng", cũng đã từng chiến đấu trên chính mảnh đất này trong những ngày cuối cùng của chiến tranh. Anh không thể cho phép gã đàn ông kia hành hạ một người phụ nữ "cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh".
+ Những xúc cảm và hành động đó cho ta thấy vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, tinh tế trước cái đẹp và thiết tha gắn bó với con người, cuộc sống. Anh yêu và khao khát cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh nhưng không dửng dưrig trước cuộc đời với bao nghịch cảnh đau đớn.
– Hành trình nhận thức về con người, cuộc sống: được phản ánh qua những phát hiện và thái độ của Phùng với người đàn bà hàng chài khi quan sát vẻ ngoài thô kệch, tăm tối và khi cảm nhận thế giới tâm tư của một người phụ nữ bao dung, vị tha, sâu sắc,…; tình cảm anh dành cho chị em thằng Phác – hai đứa trẻ với nỗi bất hạnh phải sống trong một gia đình nghèo khổ với người bố thô tục, dữ dằn – và tình yêu thương sâu sắc mà chúng dành cho người mẹ…
+ Người nghệ sĩ ấy đã phát hiện chất thơ kì diệu ngay giữa những lầm lụi, đau khổ của đời thường "lam lũ, khó nhọc". Nó thấp thoáng hiện lên qua đôi bàn tay thằng Phác "khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt". Nó toát lên từ vóc dáng "mềm mại và nhanh như một con vượn đen tuyền trong bộ quần áo đen ướt rượt bó sát vào mình" và hành động quyết liệt của đứa con gái – chị ruột thằng Phác – khi cô bé vật lộn với em, cố tước con dao găm mà thằng bé định dùng để bênh vực mẹ. Cái chất thơ kì lạ đó ngời lên trong hình ảnh thiếu nữ áo tím với "cặp mắt đen của chiếc thuyền mới đóng" khiến Phùng không tin nổi rằng "cái nhan sắc đang độ trẻ con như đúc từ trời biển trong suốt, nên thơ này lại được tách ra từ da thịt của người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ".
+ Đặc biệt, anh đã phát hiện "con người ở bên trong con người" khi quan sát, suy ngẫm về người đàn bà hàng chài. Trorm hai lần gập trước, chứng kiến cảnh tượng mụ câm lặng chịu đựng sự bạo hành của gã chồng vũ phu, Phùngđã nhìn bằng con mắt thương hại. Lúc đó, anh chỉ thấy một người đàn bà xấu xí, thô kệch, lam lũ, cam chịu đến nhẫn nhục. Gặp lại chị ở toà án huyện, lúc đầu anh vẫn quan sát người đàn bà này bằng ánh mắt xót xa pha lẫn niềm thương hại. Chị ta mặc chiếc áo nâu bạc phếch với "một miếng vá bằng vải xanh bàng bàn tay trên vai", với những bước đi một mỏi, chậm chạp như một bà già. Khi bước vào toà án, chị khúm núm, sợ sệt "tìm đến một góc tường để ngồi"và ngay cả khi vị chánh án cố tỏ ra thân mật, niềm nở, chị cũng chỉ dám "rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và “Cố thu người lại". Anh càng cảm thấy bức bối hơn khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh án đừng bắt chị phải li hôn người chồng vũ phu. Có lẽ, Phùng đã nghĩ rằng người đàn bà này tăm tối, nhẫn nhục đến mức đáng giận.
+ Nhưng khi nghe những lời tâm sự của chị, anh ngỡ ngàng trước sự từng trải, sắc sảo và đức hi sinh của một người mẹ. Từng lời kể, từng cử chỉ của người đàn bà hàng chài đều khiến anh xúc động, cólẽ, phải đến tận lúc này, Phùng mới hiểu vì sao chị chấp nhận cái cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" và cái sự chị nhất quyết không li hôn gã chồng vũ phu. Anh không còn nghĩ rằng người đàn bà kia cam chịu vì yếu đuối hay tăm tối, ngu dốt. Anh cảm nhận được tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người phụ nữ hàng chài "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình" được. Dù người phụ nữ ấy "chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài" nhưng anh vẫn hiểu thấu "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời" ẩn sâu trong tâm hồn chị. Từ chỗ ngạc nhiên, bất bình vì những hiện tượng ngang trái, phi lí, Phùng đã thực sự cảm thông, chia sẻ cùng chị. Anh hiểu rằng không thể "giúp đỡ" chị theo cách mà anh và Đẩu định làm – bằng một cuộc li hôn. Anh hiểu sự hi sinh thầm lặng, cao cả và niềm hạnh phúc của người mẹ: "Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Người nghệ sĩ ấy đã tìm thấy từ câu chuyện của bà mẹ hàng chài lam lũ, đau khổ những bài học sâu sắc về cách nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc sống.
+ Vì thế, khi ngắm lại tác phẩm nghệ thuật của mình, anh không chỉ tự hào vì nó "được treo ở nhiều nơi, nhất là trong những gia đình sành nghệ thuật" mà còn vì nó ẩn chứa cái đẹp thực sự của cuộc đời. Mỗi lần đối diện với bức ảnh đen trắng, anh lại thấy hiện lên "cái màu hồng hồng của ánh sương mai" trong khoảnh khắc tuyệt đẹp ngày nào và lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra khỏi tấm ảnh. vẫn vóc dáng cao lớn, thô kệch của người đàn bà vùng biển, vẫn tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá và khuôn mặt rỗ nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm nhưng giờ đây chị đã là biểu tượng cho vẻ đẹp, cho sức sống bền bỉ, phi thường của nhân dân với "những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông".
– Xây dựng nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm nhiều quan niệm mới mẻ và sâu sắc về con người, về nghệ thuật và cả những chiêm nghiệm về cuộc đời, vềnghệ thuật. Các tình huống được nhà văn lặp lại nhằm nhấn mạnh những biến đổi trong cách nhìn của Phùng về nghệ thuật và cuộc sống. Từ chỗ mơ mộng, bay bổng trong niềm hạnh phúc ngỡ mình tìm thấy cái đẹp toàn bích đến cảm giác sững sờ, phẫn nộ trước sự thật phũ phàng; từ sự thương hại trước vẻ nhẫn nhục, cam chịu đến cảm thông, chia sẻ; từ thái độ bất bình gay gắt trước những nghịch cảnh, phi lí đến sự hiểu thấu lẽ đời. Đó cũng là hành trình đi tìm bản chất sự thật của người nghệ sĩ.
c) Nguyễn Minh Châu đã thực sự hoá thân vào người nghệ sĩ nhiếp ảnh giàu tình yêu cái đẹp và nhạy cảm trước con người. Nỗi day dứt, đau khổ trước cảnh đời ngang trái, sự nhiệt thành khi bênh vực người phụ nữ bị hành hạ, khả năng mở rộng tâm hồn để đón nhận, để lắng nghe "những vang động của đời",… khiến nhân vật này trở thành "hình mẫu" của người nghệ sĩ chân chính. Đó là con người kiên trì và dũng cảm trên hành trình đi tìm cái đẹp và sự thật. Anh đã không dừng lại ở những hiện tượng bề ngoài mà biết "đào xới các tầngsâu" của hiện thực đời sống. Có lẽ, với nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn nói về những "điều kiện" không thé thiếu trong quá trình sáng tạo, về cội nguồn làm nên sức sống bển vững cho tác phẩm nghệ thuật.