BÀI LÀM

Bốn khổ thơ sau tác giả dồn bút lực để miêu tả cái khái quát, “Các vị... chúng nhân”. Huy Cận vốn cho rằng những pho tượng ấy chính là con người chính vì đau khổ mà họ ngồi lặng yên. Thật ra, họ vẫn nghe được từ vực thẳm của đời nhân loại nổ ra những cơn giông bão lớn. 

Tuy mỗi người một vẻ không ai giống ai nhưng họ chính là con người nhân thế của một thời đại. Mặt con người biểu trưng cho cuộc đời chúng sinh trong quá khứ, hai từ người trong câu thơ một lần nữa đã định hướng cho cảm hứng thế sự của bài thơ. Nỗi đau thương ôm trùm cả một không gian rộng lớn. Đó là những dòng chảy ngang dọc của những dòng nham thạch ngun ngút lửa khói khi hợp lưu nó trở nên “cuồn cuộn đau thương” để rồi nó chảy giữa đời và bầu trời của thế gian úp chụp xuống, mỗi lúc một bức bối ngột ngạt. Cũng theo Huy Cận sự tụ hợp các vị La Hán trong một quần tượng như thế này chính là một cuộc họp lạ lùng trong vật vã, cả một đám đông khổ đau. Không khóc bằng nước mắt những con người thời đại xưa cũ đã khóc - mồ hôi – tiếng khóc của trí tuệ”. “Nung nu tâm can... Có cứu được đời đâu”. Khổ thơ tiếp theo nói về ba gương mặt ở ba tư thế bất bình thường gọi ta nhớ đến ba pho tượng ở phần trên, mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau. Bất bình thường ấy dĩ nhiên scó một tâm trạng bất bình thường.

Dân gian thường nói bốn phương tám hướng, cái số tấm hình bát quái ấy quả là mê hồn trận của những cuộc đời không kiếm được lối ra. Có bảy cửa từ một cửa sinh. Nếu mạo hiểm để bung ra tìm một con đường thì cầm chắc cái chết. Do đó mà các vị chỉ bất động một nơi Tự tay ngồi y cho đến nay”. Do đó mà hỏi trời sâu, hỏi hư vô... Câu thơ gợi cho ta câu hỏi tuyệt vọng của những con người tinh anh nhất của thời đại.

Nỗi hờn kim cổ tri khôn hỏi

(Nguyễn Du)

Câu thơ thứ ba bị gãy đổi như đờn đứt dây lỡ nhịp của nàng Kiều. Như “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương” của Đạm Tiên. “Một câu hỏi lớn”. Dấu chấm là một khoảng lạ, một tín hiệu gởi đi mà không lời đáp, dấu chấm nghiệt ngã tạo một vực thẳm ngăn cách giữa khát vọng trên lối ra và bé tắc vô vọng. Câu hỏi vút lên để rồi bị chốn thâm u nuốt mất. Đây chính là một nỗi đau lịch sử có độ dài thời gian “Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”. Hóa ra cuộc tìm đường tập thể, cuộc họp tập thể đã không có nghị quyết, đã bế tắc.

Viết về các bức tượng chùa Tây Phương Chế Lan Viên cũng có những suy nghĩ sắc sảo với niềm cảm thông tri kỉ cùng cha ông.

Cha ông xưa tng dm nát tay trước cửa cuộc đi

Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa

Những pho tượng ca y Phương không biết cách trả lời

Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ

“Văn chiêu hồn” từng thấm giọt mưa rơi

Thành công của Huy Cận trong tám khổ thơ này là luôn giữ được sự thăng bằng, sự miêu tả và suy tưởng. Ông đã tạo được những bức tượng và cả quần thể tượng bằng một ngôn ngữ điêu khắc. Chính trí tưởng tượng suy ngẫm đã thổi linh hồn sống cho những pho tượng ấy.

Bài viết gợi ý:

1. Bình giảng bốn khổ thơ đầu bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương của Huy Cận

2. Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ. Bình giảng khổ thơ đề từ và phân tích nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

3. Tại sao nỗi nhớ em trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên lại được đặt ở khổ cuối cùng trong những nỗi nhớ nhân dân? “Nhớ em” so những nỗi nhớ khác trong bài thơ như thế nào?

4. Bình giảng khổ thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Con nhớ mế: Lửa hồng soi tóc bạc, Năm con đau mế thức một mùa dài, Con với mế không phải hòn máu cắt, Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi"

5. Hãy dựa vào nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên để giải thích ý nghĩa nhan đề đó của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy làm đề từ cho bài thơ: "Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc, Khi lòng ta đã hóa những con tàu, Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát, Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?

6. Hãy bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ...Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương". Từ đó nêu cảm nghĩ của em về phong cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên

7. Phân tích dòng chảy tâm trạng của nhân vật trữ tình ở bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên