BÀI LÀM

Bài thơ bố cục theo diễn biến tâm trang với ba nấc chính của tiếng hát con tàu.

Khúc hát 1: Trăn trở (Khổ 1 – 2)

Giọng thơ vừa day dứt, vừa giục giã. Tác giả dùng thủ pháp phân thân (tách đôi mình ra) bằng cách tự vấn qua hàng loạt những câu hỏi và những câu trả lời. Những câu hỏi thì riết rong tăng cấp:

Anh đi chăng? Anh có nghe? Sao chửa ra đi?...

gợi âm điệu hối thúc giục giã lên đường. Những câu trả lời tạo thế đối lập giữa phê phán (Tàu đói những vầng trăng, đi anh nhỏ hẹp, chẳng có thơ đâu...) và mời gọi (Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia). Âm điệu tự p, tư vn này thường xuất hiện trong tChế Lan Viên, to một độ sâu đặc biệt cho cảm hứng trữ tình.

- Khúc hát 1 (trăn trở) là sự lấy đà, chuẩn bị tâm lí, chuẩn bị trí tuệ, ý chí, khởi động cảm xúc cho con tàu tâm hồn trước giờ lăn bánh vào cuộc hành trình lớn lao và thiêng liêng.

Khúc hát 2: Hoài niệm (9 khổ giữa).

Khát vọng lên đường có cội nguồn sâu xa từ những kỉ niệm kháng chiến. Sự da diết của kỉ niệm làm sống lại hình ảnh những con người cụ thể đầy xúc động, thể hiện sự hi sinh, sự cưu mang đùm bọc của nhân dân đối với cách mạng. i đến nhân dân anh hùng, giọng thơ Chế Lan Viên rưng rưng từ cách xưng gọi (xưng “con”! gọi “anh con”, “em con”, “mê”). Cách xưng gọi đó khiến quan hệ gia tác giả và nhân dân thành tình cảm gia đình ruột rà, thắm thiết. Đằng sau cách xưng gọi, hiện ra hình ảnh anh du kích, em liên lạc, người mẹ nuôi quân... Những con người bình dị đã thầm lặng hi sinh cho kháng chiến. Điệp từ “nhớ” xoáy vào quá khứ, biểu hiện lòng biết ơn sâu nặng của tác giả đối với nhân dân - những người đã chiến đấu, chở che cho mình trong những tháng năm gian khổ.

Từ xúc cảm cụ thể, hình ảnh thơ luôn có xu hướng vươn lên khái quát, triết lí (khổ 9, 10). Vẻ đẹp của loại hình ảnh này trước hết ở sự đột ngột và táo bạo. Những phép liên tưởng so sánh đã nối với nhau những hình ảnh sâu xa, gây bất ngờ mà vẫn hợp lí (nhớ em - đông về nhớ rét, nh yêu ta - cánh kiến hoa vàng). Những vế so sánh giàu ấn tượng cảm giác: Từ cảm giác da thịt lan tỏa đông về nhớ rét đến cảm giác sắc màu rực rỡ (Cánh biến hoa vàng, chim rừng đồng trở biếc). Vẻ đẹp của loại hình ảnh này còn ở chỗ đậm tính triết lí, châm ngôn, mang phong cách thơ trí tuệ Chế Lan Viên, kiểu như: “Khi ta chlà nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”, hoặc: “Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”. Đây là những triết lí rút ra từ những cảm xúc và hình ảnh nên không rơi vào khô khan. Triết lí lại được diễn đạt giản dị, cô đúc nên gây ấn tượng mạnh. Đó là kết quả của những chiêm nghiệm sống lâu dài, sâu sắc nên giàu sức thuyết phục, nên được một quy luật thấm thía: trong đời sống con người, tình cảm có sức mạnh kì lạ – nó biến cái xa xôi thành gần gũi (đất lạ hóa qhương), biến cái vô tư thành linh hồn t đã hóa tâm hồn).

- Những kỉ niệm máu thịt cụ thể về Tây Bắc đã được tổng kết thành những nhận thức sâu sắc về sức mạnh quá khứ, sức mạnh của kháng chiến: “Ôi kháng chiến! Mười năm qua như ngn lửa - Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường”. Hình ảnh kháng chiến hóa thành hình ảnh “ngọn lửa soi đường” kì diệu, nó đủ sức phát sáng không chỉ cho dân tộc mà cho cả mỗi người trong hiện tại và tương lai. Nó thắp sáng tâm trí và hồn tác giả, để òa ra niềm vui về với Tây Bắc và về với nhân dân: “Con gặp lại nhân dân như nại về suối cũ... Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. Niềm hạnh phúc được về với nhân dân được diễn tả bằng hàng loạt những so sánh tầng tầng lớp lớp (như nại về suối - cỏ đón giêng hai - chim én gặp mùa - trẻ thơ đói lòng gặp sữa – chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa). Cường độ hạnh phúc thật mạnh mẽ. Hạnh phúc nở xòe rực rỡ trong những hình ảnh lấp lánh vô tận. Tìm về với nhân dân cũng là về với hạnh phúc của chính mình.

Khúc hát 3: Lên đường (bốn khổ cuối). Giọng thơ lôi cuốn, mạnh mẽ. Khúc hát đạt tới cao trào.. - Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi! Một câu thơ hòa nhập với tiếng gọi, tiếng hát của đất nước chuyển hóa thành tiếng gọi bên trong, thành lời giục giã chính lòng mình. Tiếng hát song ca đó tạo nên lời thơ mời gọi gấp gáp (Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ - Mắt ta tm... Mt ta nhớ...)

Khổ kết vút lên xúc cảm lãng mạn bay bổng. Hình ảnh con tàu với tâm hồn khao khát “uống một vầng trăng”, “Mặt hồng em” gợi niềm cảm xúc đam mê ngây ngất. Tây Bắc - biểu tượng cho đất nước, nhân dân, cho cội nguồn thơ ca, là cái sân – ga – tinh – thần mà con tàu tâm hồn tác giả đã tới đích.

Sức sống lâu bền của tác phẩm không chỉ ở khát vọng lớn về với nhân dân, đất nước mà còn ở sự gặp gỡ tuyệt diệu giữa tiếng gọi của đất nước với nhu cầu tinh thần tự giác của nhà thơ (Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?)

Ấn tượng của bài thơ còn cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Chế Lan Viên, thể hiện qua sự sáng tạo hệ thống hình ảnh mới lạ, biến hóa, tầng lớp cùng sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cảm xúc và trí tuệ.

Bài viết gợi ý:

1. Phân tích nhan đề và bốn câu đề từ ở bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

2. Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: "Mùa thu nay khác rồi, Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi, Gió thổi rừng tre phấp phới, Trời thu thay áo mới, Trong biếc nói cười thiết tha, Trời xanh đây là của chúng ta, Núi rừng đây là của chúng ta, Những cánh đồng thơm mát, Những ngả đường bát ngát, Những dòng sông đỏ nặng phù sa."

3. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi: "Sáng mát trong như sáng năm xưa, Gió thổi mùa thu hương cốm mới, Tôi nhớ những ngày thu đã xa, Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội, Những phố dài xao xác hơi may, Người ra đi đầu không ngoảnh lại, Sau lưng thềm năng lá rơi đầy".

4. Có hai mùa thu trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Hãy phân tích những nét giống và khác nhau trong cảm nhận của nhà thơ về hai mùa thu ấy và chỉ ra hiệu quả nghệ thuật của cách cảm nhận ấy

5. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi: "Ôi những cánh đồng quê chảy máu, Dây thép gai đâm nát trời chiều, Những đêm dài hành quân nung nấu, Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu... "

6. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi để làm nổi bật cảm hứng về đất nước của nhà thơ

7. Phân tích đoạn thơ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: "Sáng mát trong như sáng năm xưa (...) Những buổi ngày xưa vọng nói về"