BỘ ĐỀ THI THPTQG CHUẨN CẤU TRÚC - ĐỀ 20

Môn: Ngữ Văn

Thời gian làm bài: 120 phút.

 

I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)

Đọc văn bản:

NHỮNG LỜI KHEN

        [...] Bạn ạ, bạn phải coi chừng những lời khen.

        Đôi khi họ khen mình là nữ tính để họ dễ bề thôn tính cả không gian và âm thanh, khi bạn thu mình lại và ăn nói nhỏ nhẹ trước họ.              Khen bạn dịu dàng là để bạn không bộc lộ trí thông minh hơn họ: Không cãi lại họ và họ dễ dàng áp đặt.

        Họ khen bạn là phái đẹp để bạn đừng làm hơn những gì của một bông hoa.

        Họ khen bạn là hoa để họ làm ong làm bướm, đậu rồi lại bay. Họ khen bạn là hoa để bạn làm vai trò trang trí, để bạn không ở địa vị cao, không nhận nhiều lương của họ. Và đôi khi, cao hứng lên, họ còn trịch thượng phán xét bạn là hữu sắc vô hương nếu bạn lỡ không hơn một vật trang trí.

        Họ khen vợ họ là bà nội tướng giỏi để họ yên tâm một mình tung hoành nơi biên ngoại với trí thức, sự nghiệp, khoa bảng, quan trường, nhà trò con hát...

        Thế đấy! Đừng sung sướng với những lời khen để biến mình thành người khác. Mỗi bạn gái đã là một kho tàng của chính mình. Mỗi người chỉ cần là một nốt nhạc cũng đủ làm cho giai điệu cuộc sống rực rỡ âm thanh. Có những lời khen chứa đựng một phần xấu xí. Hỡi một nửa nhân loại, hãy cảnh giác với lời khen! 
                                                                            (Những lời khen chứa một phần xấu xí, Đoàn Công Lê Huy ) 

Trả lời các câu hỏi:
 Câu 1
. Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Chỉ ra phép liên kết phổ biến nhất được sử dụng trong đoạn trích?
Câu 3. Vì sao tác giả lại khuyên bạn gái phải “coi chừng những lời khen”? Điều đó có hợp lí không?
Câu 4. Theo anh/ chị, người phụ nữ hiện đại nên được nhận những lời khen như thế nào?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)

      Bằng đoạn văn 200 chữ, luận về lời khen trong cuộc sống.
Câu 2 (5 điểm)
       Phân tích vẻ đẹp trữ tình của những con sông được khắc họa trong hai tùy bút “Người lái đò sông Đà " của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

 

HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI

 

Câu 1

    Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận.

Câu 2

    Phép liên kết phổ biến nhất trong văn bản là phép lặp.

    Tác giả lặp lại cấu trúc “Họ khen” 5 lần và lặp lại từ “khen ” 17 lần

    Tác dụng: tạo dấu ấn, nhấn mạnh chủ đề của văn bản là bàn luận về những lời khen chứa đựng một phần xấu xí quanh những người phụ nữ trong cuộc sống.

Câu 3

     Tác giả khuyên bạn gái phải “coi chừng những lời khen” có phần hợp lí. Bởi lẽ, những lời khen ấy không có tác dụng làm người phụ nữ hạnh phúc hơn mà ngược lại, ràng buộc họ vào những sợi dây định kiến và áp đặt, không cho người phụ nữ cơ hội để thể hiện mình.

Câu 4

- Về hình thức: 5-7 dòng, diễn đạt mạch lạc.

- Về nội dung: bàn luận về những lời khen ý nghĩa dành cho phụ nữ. Nhưng cần làm nổi bật được: khi những lời khen có giá trị như lời khuyến khích bạn gái tự tin là chính mình, hãy thể hiện mình, hãy thực sự bình đẳng trước đàn ông thì đó mới là những lời khen quý giá, đem lại hạnh phúc cho người phụ nữ trong xã hội hiện đại.

II. LÀM VĂN (7 điểm)

Câu 1 (2 điểm)

Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:

•Xác định đúng vấn đề nghị luận.

•Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.

•Đảm bảo bố cục: mở - thân - kết, độ dài 200 chữ.

•Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đàm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.

Yêu cầu nội dung:

Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:

 

Câu

Nội dung

Đoạn văn

 

Nêu vấn đề

+ Vấn đề

 

 

+ Giải thích

+ Những lời khen

+ Người  ta thường  khen nhau khi có được niềm  vui hoặc thành tựu trong cuộc sống. Nhưng lời khen có phải lúc nào cũng khiến ta hạnh phúc?

 

Luận bàn

Ý nghĩa  của  những  lời khen

+ Lời khen khiến người nhận cảm thấy vui vẻ và nhìn nhận lại giá trị của bản thân, tự tin vào bản thân, lạc quan vào cuộc sống, hăng hái nỗ lực.

+ Lời khen cũng khiến tạo ra hòa khí và thể hiện sự ghi nhận của người khác về mình. Khen tặng là món quà quý giá của cuộc sống.

 

Phản biện

Có phải lúc nào lời khen cũng tốt?

 Lời khen cũng có những mặt trái của nó:

+ Khiến người ta tự mãn, ảo tưởngg không nhìn nhận đúng giá trị bản thân.

+ Lời khen không chân thành khiến người nhận không thoải mái, tạo ra áp lực hoặc người khen trở thành kẻ giả tạo, xu nịnh,...

Giải pháp :   

+ Nhận thức

+ Hành động  

 + Ai cũng thích những lời khen, nhưng khen - chê phải chân thành, đúng mực, hướng tới điều tốt đẹp,  không dè xẻn, không lạm dụng.
+ Biết cách khen một cách khéo léo, nhã nhặn.
+ Đón nhận lời khen một cách tỉnh táo, thông minh.
 Liện hệ : Hiểu rằng, khen là cả một nghệ thuật và chân thành là chìa khóa của lời khen giá trị.

Câu 2 (5 điểm)

Yêu cầu chung: 0,5 điểm

Thí sinh  biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ. Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Yêu cầu nội dung: 4,5 điểm

ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ

- Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Ai đã đặt tên cho dòng sông, Người lái đò Sông Đà

- Dạng bài: so sánh, phân tích, chứng minh

- Yêu cầu: Phân tích những vẻ đẹp trữ tình được khắc hoạ trong hai tuỳ bút, từ đó chỉ ra nét tương đồng và khác biệt trong việc khắc hoạ hình tượng.

TIẾN TRÌNH LÀM BÀI

KIẾN THỨC

HỆ THỐNG Ý

PHÂN TÍCH CHI TIẾT

CHUNG

 

 

 

 

 

 

 

 

0,5 điểm

Khái quát vài nét về tác giả - tác phẩm

- Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà:

+ Nguyễn Tuân là một trong chín tác giả lớn của văn học nước nhà. Chữ “ngông” chính là từ dùng khi người ta nhắc về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Cái ngông trong nghệ thuật thể hiện ở sự tài hoa và uyên bác trong trang văn, trong cách sử dụng Tiếng Việt, mới, lạ, không giống ai trong hệ thống đề tài... Mỗi một nhà văn vẽ lại thế giới theo cách riêng của mình, Nguyên Tuân là nhà văn tô điểm cho thế giới bằng cái đẹp. Đối với Nguyễn Tuân, văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cả một đời người nghệ sĩ ấy say mê và truy tìm cái đẹp, cái thật, làm phát lộ nó dưới ngòi bút tài hoa của mình.

+ Người  lái đò  sông Đà  là một  tùy bút xuất sắc được  in trong tập Sông Đà 1960, đó là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng rất hứng thú của  nhà văn  vào những năm  1958 - 1960. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất  Tây Bắc,  tìm ra thứ  “vàng mười” đã  qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây Bắc.

- Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông?:

+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước gắn bó sâu sắc với quê hương. Ông là nhà văn có sở trường về bút kí, tuỳ bút. Như nhà văn Nguyễn  Tuân đã từng  ca ngợi:  Ký của  Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa.
+ Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm được in trong tập bút kí cùng tên năm 1986.
Như vậy, có thể thấy được rằng, hai hình tượng chính đều được vẽ bằng những ngòi bút hết mực tài hoa và bằng cả niềm yêu mến dâng đầy.

  Giải thích:

- Chất trữ tình trong thơ văn là những cảm xúc, rung động của nhà thơ, nhà văn trước cái đẹp. Bởi vậy, vẻ đẹp trữ tình phải là một vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn. Một vẻ đẹp làm xao xuyến lòng người, vẻ đẹp ấy khiến người chứng kiến ngân lên những rung động, xúc cảm diết da. Bằng tình yêu và niềm ngưỡng mộ, cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm bật lên được vẻ đẹp trữ tình của hai dòng sông, “hai kỳ quan” tuyệt đẹp của đất nước.
- Vẻ đẹp trữ tình - một trong những yếu tố làm nên dấu ấn của hình tượng sông Đà và sông Hương

 

  

TRỌNG TÂM

Điểm tương đồng

- Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có tính cách, đặc biệt hơn là nổi bật qua vẻ đẹp. Cả hai con sông đều được ví như những người con gái trẻ trung mang trong mình những vẻ đẹp  trong sáng, tinh khôi “Con Sông Đà  tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Với dòng sông Hương, ta cảm nhận thấy dòng sông mang trong mình nó nét dẹp dịu dàng, đằm thắm, như người con gái xứ Huế kín đáo, e lệ, tinh tế vô cùng. Cả hai nhà văn đều khắc họa hình tượng dòng sông với vẻ đẹp, dáng vẻ phong phú, đa dạng ở nhiều khoảng thời  gian, không gian, với điểm nhìn khác nhau.

+ Dòng sông Đà được nhìn ngắm qua những góc nhìn rất độc đáo, góc nhìn từ  trên cao, góc nhìn của một người  thân quen lâu ngày không găp... Về thời gian, sông Đà được nhà văn chiêm ngưỡng ở cả bốn mùa: xuân, hạ,  thu, đông  - mỗi  mùa lại đem đến  cho tác giả những xúc cảm, ấn tượng riêng. Qua đó nhà văn muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp của con sông yêu thương.

+ Với  dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thể hiện thành công vẻ đẹp hoàn chỉnh về nhiều góc độ của nó.  Nhà văn đã ghi lại được vẻ đẹp phong phú của sông Hương trong cuộc hành trình từ thượng nguồn đến xuôi về bể của nó. Và như vậy dường như vẫn chưa đủ, ông còn mang đến cho người đọc một cái nhìn đầy đủ hơn về sông Hương qua vẻ đẹp trong lịch sử, cuộc đời và thi ca. Có thể nói, cả hai nhà văn đã tái hiện thật độc đáo và đa dạng vẻ đẹp của dòng sông gắn  bó tha thiết với  mình qua nhiều phương diện  khác nhau.
     Để độc giả được chiêm ngưỡng những hình tượng độc đáo, những vẻ đẹp khó phai mờ đó, tất yếu đều phải nhờ đến ngòi bút tài năng lẩy ra. Có thể nói rằng, những con sông đã được phơi “dáng ngọc" nhờ cái thần của hai cây bút. Hai dòng sông không chỉ thuần tả qua dáng hình, mà được tập trung làm nổi bật trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ.Những nét đẹp, những dấu ấn riêng    

- Vẻ đẹp của sông Đà: Sông Đà là nơi hội tụ hai nét tiêu biểu, đặc trưng của  thiên nhiên Tây Bắc vừa  hùng vĩ,  uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng. Con Sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ "đỏng đảnh " để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ "gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Trong vẻ đẹp của Sông Đà, họ phát hiện ra nó đẹp như một bức tranh đường thi vẽ cảnh “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu” của Lý Bạch, vẻ đẹp như trang nghiêm trong mạch cổ Đường thi, vừa lắng đọng về một thời Lí, Trần, Lê vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống đâm chồi nảy lộc.
- Vẻ đẹp của sông Hương: Còn Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế. Sông Hương chính là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa - văn hóa Huế. Dòng sông Hương, trước hết được hiện lên trong nét đẹp, trong sự gắn bó cùng lịch sử, như chứng nhân từ quá khứ cho đến tận bây giờ. Từ dòng sông biên thuỳ trong sách địa dư của Nguyễn Trãi; nhẹ  nhàng  soi  bóng  kinh  thành  Phú  Xuân của  người   anh  hùng Nguyễn Huệ, hoà mình với lịch sử bi tráng của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ  XIX hay là chứng  nhân cho bão táp cách mạng  tháng Tám, cuộc tổng tấn  công Mậu  Thân 1968. Thứ  nhì, Sông Hương  - con sông của thi ca và nhạc họa. Vẻ đẹp sông Hương ẩn trong chiều sâu linh hồn của sông Hương, nó chứa đựng bản sắc rất đặc trưng và thật phong phú của một nền văn hoá cố đô, mà dòng chảy của nó khảm bao tinh hoa văn hóa dân tộc suốt từ ngàn đời. Sau cùng, sông Hương được nhìn nhận trong cuộc sống đời thường. Nhìn ở lăng kính này, sông Hương nhẹ nhàng như vẻ đẹp người con gái xứ Huế hay e lệ, dịu dàng và mộng mơ.

 

LÝ GIẢI

Lý giải sự khác biệt

         Đặc điểm của hai con sông ngoài đời thực rất khác nhau: sông Đà nước xiết bởi độ dốc cao, lại có một đoạn cua ngược từ Đông Nam lên Tây Bắc  nên gợi vẻ đẹp trữ  tình nhưng vẫn  hùng vĩ,  có cái vẻ mặn mà, đằm thắm, diễn tả vẻ trù phú, yên ả ven sông. Sông Hương chảy qua kinh đô, xuôi một chiều và dòng chảy rất chậm nên có một vẻ đẹp e lệ, dịu dàng đài các và đặc biệt đậm chất văn chương, nghệ thuật.
- Sự  khác biệt của  hai phong cách văn: Nguyễn  Tuân với lối viết sáng tạo và tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thường đưa vào văn tri thức với lối viết hàm súc

  

Bài viết gợi ý: