Phân tích bài thơ Chiều tối
– Hồ Chí Minh-
ĐỀ BÀI : phân tích bài thơ “ CHIỀU TỐI” của Hồ Chí Minh để làm nổi bật vẻ đẹp cổ diển và tinh thần hiện đại của bài thơ
Chiều tối là bài thơ được viết trong thờ điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao . Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự ấm áp của con người . Qua đó, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên , một tấm lòng nhân hậu đối với con người , một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống , ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại .
Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương . Khung cảnh buổi chiều về tối thường đễ sinh vì thế , buổi chiều đã đi vào bao ánh thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác . Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian , hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ . Ở đây bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớp làm nền cho cảnh chiều .
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạm độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không )
“ cánh chim ’’và “ chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trowng thơ chiều xưa và nay.
Cho nên , đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian . Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cố phương Đông . Trong thế giới thẩm mĩ ấy , hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ điễn tả cảnh chiều : “ Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm ’’là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán . Trong “ Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều , Nguyễn Du đã điền vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng : “Chim hôm thoi thót về rừng” . Trong thơ bà Huyện Thanh Quan cũng thế : “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiên đần về cuối chân trời : “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ .
Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần túy để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi trên cảm giác về sự xa xăm, phiêu dạt chia lìa:
“ Chùng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
“ Thiên sơn điểu phi tuyết”- Liễu Tông Nguyên
Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm , vô tận , gợi lên một ý niệm siêu hình naod đó . Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướn điểm dừng ,mục đích bay rõ ràng :
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
(Chim bay về rừng tìm chốn ngủ)
Như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực . Ta nhận thấy phong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương , trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống . Nhìn cánh chim đang bay , Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động . Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống , cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo .
Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ : “ Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch . Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao , sự phiêu diêu , thốt tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không.Còn trong bài thơ “Chiều tối” của Bác , hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền núi rừng . Bàu trời hôm ấy phải thật cao , thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách , quê người của Bác . Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng . Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm , còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ đừng chân . Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không , còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách . Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lỗi tả cảnh ngụ tình . Ở đó ta bắt đầu gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống . Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác .
Nếu như ở hai câu thơ đầu bằng bút pháp cổ điển Bác đã dựng nên cho bức tranh, thi trong hai câu thơ sau ,Bác tập trung làm nổi bật hình tượng trung tâm của bức tranh .Từ bút pháp cổ điển Bác chuyển hẳn sang bút pháp hiện đại
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hồn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng )
“xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự bình yên của con người .Xóm núi như đẹp hơn , ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ . Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động ( xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều . Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hồn tồn tại khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa . Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như : “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng the khép kín”, chỉ biết “cầm kì , thi, họa”là đủ . Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường , khỏe khoắn đầy sức sống . Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếu nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh.
Trong thơ xưa , những bức tranh về cảnh chiều đều có bóng dáng con người sao lẻ loi , cô độc và hiu hắt quá . Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hồi cổ , một nỗi sầu muộn :
“Lom khom dưới núi tiều vài chú ,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
( Qua đèo ngang- Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
“Gác mái ngư ông về viễn phố ,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn”
(Chiều hôm nhớ nhà- Bà Huyện Thanh Quan)
Còn con người trong thơ Bác , lại là con người lao động đầy sức sống . Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh . Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình . Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hồn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng”hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ . Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối . Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt . Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”,có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ . Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đâm ấm, hạnh phúc gia đình , ánh lửa hồng của sự sống , của niểm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ , tỏa ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng vẻ của bức tranh chiều tối nơi núi rừng
Hai câu thơ đã cho thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương , trân trọng của Bác đối với con người lao động . Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu , hoang vắng , lẽ ra rất buồn bã thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích , bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui.Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy , tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm , dạt dào.
“Chiều tối” là một tác phẩm điệu đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại , thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù- thi sĩ , người chiễn sĩ cộng sản Hồ Chí Minh . Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quản nhân đạo , cảm quan về sự sống