Phân tích “ĐẤT NƯỚC

(Nguyễn Đình Thi)

 

1. Lí thuyết

1.1. Tác giả

Nguyễn Đình Thi làm thơ từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông có bản sắc và giọng điệu riêng, vừa tự do, phóng khoáng vừa hàm súc, sâu lắng suy tư, có những tìm tòi theo xu hướng hiện tại về hình ảnh, nhạc điệu, … Đặc biệt, Nguyễn Đình Thi có những bài thơ đằm thắm, thiết tha về quê hương đất nước Việt Nam trong lam lũ, đau thương đứng lên chiến đấu và chiến thắng.

1.2. Tác phẩm

“Đất nước” là một thi phẩm xuất sắc, tiêu biểu nhất cho sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ có những đoạn lấy từ hai bài thơ “Sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948) và “Đêm mít tinh” (1949), hoàn thành vào năm 1955 và được đưa vào tập “Người chiến sĩ” (1956).

1.3. Đọc hiểu văn bản

1.3.1. Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của nhà thơ:

- Tác giả mở ra một không gian vô cùng an lành, êm đềm gợi bao cảm xúc. Tình cảm chớm nở trong lòng bạn đọc với những cảm xúc nhẹ nhàng:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may …”

- Các từ láy: “xao xác

- Bức tranh buổi sáng mùa thu trong lành, mát mẻ, gió thổi nhè nhẹ bay và trong làn gió thoang thoảng mùi “hương cốm” mới. Một mùi hương dịu ngọt, thanh tao và rất đỗi quen thuộc của Hà Nội.

- Cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra cụ thể, sinh động, gợi cảm, gợi tình. Cái se se lạnh khi gió heo mây thổi về, là những con phố dài ngoằn nghèo rất đặc trưng của phố phường Hà Nội.

- Nổi bật trên bức tranh ấy là những chàng trai Hà Thành rời khỏi thành phố thân yêu để ra đi, dứt khoát nhưng cũng đầy lưu luyến:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”

- Thái độ mạnh mẽ “không ngoảnh lại”, dứt khoát ra đi bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng lên đường lấy lại tự do độc lập dân tộc.

=> Chỉ với vài nét khắc họa. phát thảo nhẹ nhàng, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã gợi lên được cái hồn của mùa thu Hà Nội năm xưa, cổ kính, đẹp một cách hiu hắt, vắng lặng và còn phảng phất nỗi buồn. Có thể nói mỗi khi viết về mùa thu Hà Nội năm xưa thì như được chắc lọc ra từ trong máu thịt của nhà thơ những dòng cảm xúc chất chứa bằng cả trái tim chân thành.

1.3.2. Mùa thu hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:

“Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữ núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha”

- Giọng điệu của đoạn thơ biến đổi hẳn, khỏe khoắn, phấn khởi, đầy sinh lực, hào hứng. Những câu thơ như những tiếng reo vui. Những chi tiết, hình ảnh gợi tả mùa thu cũng thay đổi, không hề thấy những hình ảnh ước lệ “sen tàn, cúc nở, lá ngô đồng rụng” trong thơ cổ. Mùa thu mới cũng không xuất hiện với màu áo mơ phai dệt lá vàng.

- Mùa thu hiện diện bằng hình ảnh bình dị, dân dã, tươi sáng, khỏe khoắn giữa một không gian rộng lớn, bao la tựa lòng mình vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Nhà thơ không còn cảm thấy thiên nhiên mùa thu vắng lặng, buồn hiu hắt nữa.

=> Đó là nét mới mà Nguyễn Đình Thi đã đem đến cho thơ ca.

- Nghệ thuật: + nhân hóa “Trời thu thay áo mới” là “trong biếc nói cười thiết tha

+ Điệp từ, điệp cú pháp: “… là của chúng ta”, “những”

+ Nhịp điệu thơ dồn dập, âm hưởng hào hùng, giọng điệu hùng biện, sự xuất hiện liên tiếp của các hình ảnh “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông đỏ nặng phù sa”.

=> Tác giả đã mở ra bức tranh toàn cảnh về giang sơn gàu đẹp. Khẳng định mạnh mẽ quyền làm chủ và bộc lộ mãnh liệt niềm tự hào của tác giả.

- Từ giọng thơ phơi phới bốc men say, những câu thơ cuối đoạn lại trầm xuống trong những tư tưởng đằm thắm khi nói tới truyền thống lịch sử bất khuất của đất nước:

“Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.”

- Đất nước không chỉ là những cái hữu hình như bầu trời, rừng núi hay dòng sông mà còn là những cái vô hình, truyền thống quật cường, bất khuất ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã gợi được cái vô hình của truyền thống thiêng liêng ấy qua những thanh âm được cảm nhận bằng thính giác: “rì rầm trong tiếng đất”.

=> Tiếng nói của cha ông ta ngày xưa luôn hiện diện cùng con cháu hôm nay. => Đó là tiếng vọng về thì thầm của hồn thiêng đất nước từ những buổi ngày xưa cũ vọng nói về.

1.3.3. Sức mạnh dân tộc:

a. Đất nước đau thương:

Nguyễn Đình Thi đã viết thật xúc động và đầy ấn tượng về hình ảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, đô hộ gây nên biết bao tan thương:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”

- Tác giả sử dụng những hình ảnh hoán dụ cụ thể “cánh đồng quê chảy máu” => Hình ảnh tượng trưng cho đất nước thân yêu. Những làng xóm thân thuộc đang bị quân thù càng quét, bắt giết dã man.

Dây thép gai đâm nát trời chiều” => Hình ảnh hoán dụ về bốt đồn giặc, những núi thép gai, những hàng rào dây thép gai tua tủa, nhọn hoắt, bao quanh đồn giặc, nhằm chống đỡ những trận tấn công như vũ bão của dân ta.

- Trong cái nền đau thương của đất nước, Nguyễn Đình Thi đã làm nổi bật tâm trạng của người chiến sĩ. Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn người ra trận.

- Chữ “dài” đi với chữ “nung nấu” và “bồn chồn” đã diễn tả rất đạt mối tình cảm thường trực và đột xuất. => Thể hiện thỏa đáng sự hài hòa và đột xuất, giữa cái riêng và cái chung, những tình yêu lứa đôi và tình yêu quê hương đất nước.

- Nhà thơ đã khái quát cao độ về những gian khổ mất mát, hi sinh trong cuộc kháng chiến hi sinh chống thực dân Pháp tàn bạo.

“Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương …

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt …

Thằng giặc Tây thằng chúa đất

Đứa đè cổ đứa lột da …”

Nhưng tất cả cũng không thể giết nổi cái ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất của nhân dân ta, dù có xiềng xích, súng đạn, bom rơi nhiều thế nào đi nữa thì “Lòng dân ta yêu nước thương nhà”, những con người bình dị với cuộc sống đời thường vất vả lo toan đã đứng lên nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, trở thành những người anh hùng áo vải đối đầu với hiểm nguy của quân thù. “Lòng ta bát ngát ánh bình minh”.

b. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh khái quát tượng trưng cho đất nước từ trong máu lửa của nhân dân, từ trong đau thương nhưng vẫn đứng dậy hào hùng.

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Đây là khổ thơ duy nhất mà tác giả dùng thơ 6 chữ, cách ngắt nhịp cũng độc đáo, ấn tượng.

=> Nhà thơ đã tạo nên một bức tượng đài của đất nước sừng sững hiện lên chói sáng ngời ngợi trên cái nền của máu lửa bùn lầy, trong một không gian dồn dập giữa bùn lầy, âm vang tiếng súng nổ rầm trời. Đây chính là âm hưởng anh hùng ca hào hùng.

2. Luyện tập:

Đề: Lòng yêu nước được thể hiện như thế nào qua bài “Đất Nước” của Nguyễn Đình Thi và đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.

a. Mở bài:

“Đất nước” – hai tiếng thiêng liêng đầy cảm mến, tự hào đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Theo dọc đường thơ, ta đã từng bắt gặp những tác phẩm đặc sắc khi viết về đất nước: ta say xưa trước giọng văn đĩnh đạc của Nguyễn Đình Thi với đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn và ta cũng cảm nhận được tình yêu đất nước trong đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hai bài thơ đã làm nổi bật lòng yêu nước được thể hiện vô cùng sâu sắc như một nốt nhạc trong trẻo, tươi xanh, rung động lòng người, được tỏa sáng dưới cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện của thi nhân.

b. Thân bài:

* Khái niệm lòng yêu nước:

Lòng yêu nước là một thiên tính, tình cảm cao cả, thiêng liêng, chỉ chung cho những con người yêu quê hương đất nước nơi mình sinh ra, nỗ lực cố gắng không ngừng vào công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Một thứ tình cảm gần gũi đơn giản, bình dị xuất phát từ sâu thẳm trong trái tim mỗi người dân.

* Với bài “Đất nước” – Nguyễn Đình Thi. Nhà thơ thể hiện lòng yêu nước qua việc yêu say đắm hai bức tranh thiên nhiên mùa thu tuyệt đẹp của Hà Nội xưa và nay, cùng với việc thể hiện sức mạnh phi thường, hào hùng chống lại thực dân Pháp của toàn dân tộc.

Tác giả mở ra một không gian vô cùng an lành, êm đềm gợi bao cảm xúc. Tình cảm chớm nở trong lòng bạn đọc với những cảm xúc nhẹ nhàng:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may …”

Bức tranh buổi sáng mùa thu trong lành, mát mẻ, gió thổi nhè nhẹ bay và trong làn gió thoang thoảng mùi “hương cốm” mới. Một mùi hương dịu ngọt, thanh tao và rất đỗi quen thuộc của Hà Nội. Cảnh vật thiên nhiên và con người hiện ra cụ thể, sinh động, gợi cảm, gợi tình. Cái se se lạnh khi gió heo mây thổi về, là những con phố dài ngoằn nghèo rất đặc trưng của phố phường Hà Nội.

Nổi bật trên bức tranh ấy là những chàng trai Hà Thành rời khỏi thành phố thân yêu để ra đi, dứt khoát nhưng cũng đầy lưu luyến:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”

Thái độ mạnh mẽ “không ngoảnh lại”, dứt khoát ra đi bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng lên đường lấy lại tự do độc lập dân tộc.

Chỉ với vài nét khắc họa. phát thảo nhẹ nhàng, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã gợi lên được cái hồn của mùa thu Hà Nội năm xưa, cổ kính, đẹp một cách hiu hắt, vắng lặng và còn phảng phất nỗi buồn. Có thể nói mỗi khi viết về mùa thu Hà Nội năm xưa thì như được chắc lọc ra từ trong máu thịt của nhà thơ những dòng cảm xúc chất chứa bằng cả trái tim chân thành.

Bức tranh mùa thu hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:

“Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữ núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha”

Giọng điệu của đoạn thơ biến đổi hẳn, khỏe khoắn, phấn khởi, đầy sinh lực, hào hứng. Những câu thơ như những tiếng reo vui. Những chi tiết, hình ảnh gợi tả mùa thu cũng thay đổi, không hề thấy những hình ảnh ước lệ “sen tàn, cúc nở, lá ngô đồng rụng” trong thơ cổ. Mùa thu mới cũng không xuất hiện với màu áo mơ phai dệt lá vàng.

Mùa thu hiện diện bằng hình ảnh bình dị, dân dã, tươi sáng, khỏe khoắn giữa một không gian rộng lớn, bao la tựa lòng mình vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Nhà thơ không còn cảm thấy thiên nhiên mùa thu vắng lặng, buồn hiu hắt nữa.

Nghệ thuật nhân hóa “Trời thu thay áo mới” là “trong biếc nói cười thiết tha”, điệp từ, điệp cú pháp: “… là của chúng ta”, “những” cùng nhịp điệu thơ dồn dập, âm hưởng hào hùng, giọng điệu hùng biện, sự xuất hiện liên tiếp của các hình ảnh “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông đỏ nặng phù sa”. Tác giả đã mở ra bức tranh toàn cảnh về giang sơn gàu đẹp. Khẳng định mạnh mẽ quyền làm chủ và bộc lộ mãnh liệt niềm tự hào của tác giả.

Từ giọng thơ phơi phới bốc men say, những câu thơ cuối đoạn lại trầm xuống trong những tư tưởng đằm thắm khi nói tới truyền thống lịch sử bất khuất của đất nước:

“Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.”

Đất nước không chỉ là những cái hữu hình như bầu trời, rừng núi hay dòng sông mà còn là những cái vô hình, truyền thống quật cường, bất khuất ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã gợi được cái vô hình của truyền thống thiêng liêng ấy qua những thanh âm được cảm nhận bằng thính giác: “rì rầm trong tiếng đất”. Tiếng nói của cha ông ta ngày xưa luôn hiện diện cùng con cháu hôm nay. Đó là tiếng vọng về thì thầm của hồn thiêng đất nước từ những buổi ngày xưa cũ vọng nói về.

Đất nước hiện lên đầy đau thương qua những câu thơ hiện thực của tác giả. Nguyễn Đình Thi đã viết thật xúc động và đầy ấn tượng về hình ảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, đô hộ gây nên biết bao tan thương:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”

Tác giả sử dụng những hình ảnh hoán dụ cụ thể “cánh đồng quê chảy máu”. Hình ảnh tượng trưng cho đất nước thân yêu. Những làng xóm thân thuộc đang bị quân thù càng quét, bắt giết dã man, “Dây thép gai đâm nát trời chiều” là hình ảnh hoán dụ về bốt đồn giặc, những núi thép gai, những hàng rào dây thép gai tua tủa, nhọn hoắt, bao quanh đồn giặc, nhằm chống đỡ những trận tấn công như vũ bão của dân ta. Trong cái nền đau thương của đất nước, Nguyễn Đình Thi đã làm nổi bật tâm trạng của người chiến sĩ. Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn người ra trận.

Chữ “dài” đi với chữ “nung nấu” và “bồn chồn” đã diễn tả rất đạt mối tình cảm thường trực và đột xuất. Thể hiện thỏa đáng sự hài hòa và đột xuất, giữa cái riêng và cái chung, những tình yêu lứa đôi và tình yêu quê hương đất nước.

Nhà thơ đã khái quát cao độ về những gian khổ mất mát, hi sinh trong cuộc kháng chiến hi sinh chống thực dân Pháp tàn bạo.

“Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương …

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt …

Thằng giặc Tây thằng chúa đất

Đứa đè cổ đứa lột da …”

Nhưng tất cả cũng không thể giết nổi cái ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất của nhân dân ta, dù có xiềng xích, súng đạn, bom rơi nhiều thế nào đi nữa thì “Lòng dân ta yêu nước thương nhà”, những con người bình dị với cuộc sống đời thường vất vả lo toan đã đứng lên nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, trở thành những người anh hùng áo vải đối đầu với hiểm nguy của quân thù. “Lòng ta bát ngát ánh bình minh”.

Bài thơ khép lại bằng hình ảnh khái quát tượng trưng cho đất nước từ trong máu lửa của nhân dân, từ trong đau thương nhưng vẫn đứng dậy hào hùng.

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Đây là khổ thơ duy nhất mà tác giả dùng thơ 6 chữ, cách ngắt nhịp cũng độc đáo, ấn tượng. Nhà thơ đã tạo nên một bức tượng đài của đất nước sừng sững hiện lên chói sáng ngời ngợi trên cái nền của máu lửa bùn lầy, trong một không gian dồn dập giữa bùn lầy, âm vang tiếng súng nổ rầm trời. Đây chính là âm hưởng anh hùng ca hào hùng.

* Với đoạn trích “Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm.

Nhà thơ thể hiện lòng yêu nước ở tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của nhân dân”.

“Tư tưởng đất nước của nhân dân” đã quy tụ mọi cách nhìn về Đất Nước làm sâu thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca trong thời kì chống Mỹ cứu nước.

- Hình thức: Tác giả đã sử dụng rộng rãi chất liệu văn hóa văn học dân gian, từ ca dao tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến các chi tiết lấy từ đời sống phong phú hàng ngày của nhân dân: miếng trầu, cái kèo, hòn than, … => Chất liệu ấy tạo nên cho đoạn thơ một không gian hết sức quen thuộc, gần gũi, bay bổng của ca dao, của văn hóa dân gian Việt bền vững và độc đáo.

- Nội dung:

+ Qua bình diện địa lí: Đất nước không chỉ là không gian núi sông rừng bể mà là không gian để học tập, sinh hoạt và gắn với những kỉ niệm riêng tư.

Liên hệ ca dao:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai …”

Đó là những không gian sinh tồn của dân tộc qua bao thế hệ từ quan niệm “Đất Nước của nhân dân”. Tác giả đã có những quan niệm sâu sắc mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên, con người, đất nước, nhân dân. Chính nhân dân đã in đậm dấu ấn, tư tưởng tình cảm, tâm tư của mình lên những thắng cảnh.

Những con người bình dị đã hóa thân vào đất nước. Nhà thơ đã có những khái quát sâu lắng, xúc động:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta …

Vẻ đẹp của non sông đất nước như được soi bóng vào những câu ca dao, đặc biệt là dân ca trên sông nước.

+ Bình diện thời gian lịch sử:

Để nói về lịch sử của một đất nước được hình thành từ xa xưa, với mấy ngàn năm lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm không bắt đầu bằng việc đưa ra sử liệu mà bằng những hình ảnh thật gần gũi trong đời sống hàng ngày của nhân dân, trong mỗi gia đình Việt Nam. Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể, đất nước lớn lên với những cuộc đấu tranh chống mọi thứ giặc ngoại xâm. Tác giả còn điểm lại các triều đại, các vị vua, hay các anh hùng từng được tôn vinh trong sử sách mà nhấn mạnh đến những con người vô danh bình dị. Chính nhân dân đã tạo dựng và giữ gìn đất nước qua mọi thời đại. Gánh nặng lao động, xây dựng điểm tô non sông.

+ Bình diện bản sắc văn hóa dân tộc:

Nhân dân là những người đã xây dựng, giữ gìn những truyền thống: yêu nước, lao động cần cù, đạo lí uống nước nhớ nguồn, nhân nghĩa thủy chung. Nhân dân là người đã sáng tạo và truyền lại các giá trị vật chất, tinh thần cho các thế hệ tiếp sau. Truyền thống tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn tính cách của nhân dân được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hóa dân gian.

=> Cả hai tác phẩm là những cảm nhận mới mẻ, những cái nhìn gần gũi với nhiều góc nhìn mới lạ. Đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước của tác giả …

c. Kết bài:

Nhấn mạnh tình yêu quê hương đất nước bằng những tình cảm chân thực, bình dị qua những suy tư sâu lắng, giọng điệu trữ tình, giàu cảm xúc.

Bài viết gợi ý: