Chuyên đề: Tràng Giang
~ Huy Cận ~
1, Tác giả:
-
Quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.
-
Trước cách mạng, Huy Cận là một chàng trai tiểu tư sản
sống trong hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền. Thời kì này, ông là một trong những
cây bít tiêu biểu nhất của thơ mới, tạo dấu ấn bằng những lời thơ âu sầu, ảo
mão.
-
Sau cách mạng, ông bỏ cái tôi về với cái ta của nhân
dân, của đất nước. Cách mạng làm hồi sinh tâm hồn ông, cho ông sự thăng hoa
trong sáng tác nghệ thuật.
2, Tác phẩm:
-
Được viết năm 1939 in trong tập Lửa Thiêng xuất bản
năm 1940
-
Bài thơ được gợi tứ từ dòng sông Hồng đoạn bến Chèm bến
Vẽ nhưng nó hướng tới thể hiện tất cả những con sông của đất nước.
3, Phân tích:
KHỔ 1:
Ngay từ câu mở đầu, hình ảnh của tràng giang đã hiện lên trong dập
dềnh sóng nước dung chứa nỗi sầu của thi nhân triền miên lớp lớp:
“Sóng gợn tràng giang
buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái
nước song song
Thuyền về nước lại sầu
trăm ngả
Củi một cành khô lạc
mấy dòng”
Nỗi buồn được gợi ra từ đoạn thơ là nỗi buồn “điệp điệp”, đó là nỗi buồn
tỏa rộng, thấm sâu vào lòng người, dây dưa không đứt. Hình ảnh sóng xuất hiện
còn khiến nỗi buồn trở nên triền miên và khắc khoải hơn.Ở đây, nhà thơ không
nói sóng điệp trùng mà nói “buồn điệp diệp”. Đó là lối sáng tạo trong việc dùng
từ hình ảnh hóa nỗi buồn. Mặt tràng giang rộng lớn không chỉ có những con sóng
lăn tăn mà còn có con thuyền xuôi mái. Từ láy “song song” hô ứng kết hợp với từ
láy “điệp điệp “ ở câu thơ trên đã gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và mơ
hồ. Nỗi buồn ấy dường như đã tăng lên do sự nghịch chiều nhau giữa thuyền và nước.
Nước và thuyền nghịch chiều nhau nghĩa là chỉ có hai chiều, hai hướng: “thuyền
về nước lại”, thế mà lại tạo nên một nỗi “sầu trăm ngả”.
“ Củi” là một hình ảnh vô cùng mới bởi xưa nay, người ta thường chọn những
thi ảnh mang tính ước lệ tượng trưng, mĩ lệ tao nhã đưa vào thơ ca, nhưng củi
là là một hình ảnh rất giản dị , cụ thể và đời thường, Sự xuất hiện của “ củi một
cành khô” đã khiến ý thơ trở nên gần gữi và sinh động hơn. Hình ảnh này cho thấy
sự cô độc, lạc loài, khô héo đặc biệt là khô héo giữa sự ướt át của nước. Những
số từ trăm, một, mấy... liên kết nhau gợi lên chút gì buồn bã, trơ vơ và li biệt.
Từng câu chữ, từng hình ảnh ở đây đều đặc sắc ở chỗ vừa gợi tả tràng
giang vừa chứa cả tâm sự buồn bã của thi nhân.
KHỔ 2:
“ Lơ thơ
cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng
xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời
lên sâu chót vót
Sông dài trời
rộng bến cô liêu”
Trên mặt nước xuất hiện những cồn cát nhỏ nhưng những cồn cát ấy lại lơ
thơ nằm cách xa nhau, trải rộng trong không gian nên cồn nhỏ chỉ tựa như những
nét chấm mờ khiến không gian mặt nước càng thêm vô tận. Từ láy “ lơ thơ” được đảo
lên đầu câu vừa miêu tả khoảng cách của những cồn nhỏ, vừa có thể gợi tả sự xuất
hiện, sự lay động của cỏ cây trên cồn nhỏ. Nếu trên những cồn nhỏ có cỏ cây
thưa thớt và lay động khẽ khàng thì không gian mặt nước càng thêm hiu quạnh, buồn
vắng. Hình ảnh thơ gặp gỡ và hô ứng đẩy săc sthais của Tràng Giang buồn tẻ hiu
quạnh lên cao hơn, có lúc thành ảm đạm khi thổ trên mặt tràng giang là gió đìu
hiu, gió thổi nhẹ mang theo chút hơi lạnh. Theo lời tâm sự của Huy Cận, ông đã
mượn từ “đìu hiu” này trong bản dịch
Chinh phụ ngâm:
“Non
kì quạnh quẽ trăng treo
Bến
Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
“Tiếng chợ” là âm thanh thu nhỏ
của cuộc sống, phản ánh đời sống vật chất, tinh thần của người dân một vùng miền.
“Tiếng chợ” ở đây là tiếng chợ chiều đã vãn từ làng xa vọng
lại. Từ “đâu” đứng đầu câu thơ đem đến
hai cách hiểu về tiếng chợ chiều, “Đâu
“có thể hiểu là đâu đây hình như có, nhưng cũng có thể hiểu là đâu có, hoàn
toàn không có. Dù có hay không thì âm thanh của sự sống cũng rất mờ nhạt, có
cũng như không vậy. Câu thơ “ nắng xuống trời lên sâu chót vót” đã tạo cơ hội cho bạn đọc một lần khai thác hết
trí tưởng tượng hình dung của mình để cảm nhận không gian. Nghệ thuật đối lập
tương phản giữa “nắng xuống”, “trời lên”, hai động từ mạnh” xuống, lên” khiến
hình ảnh thơ thiên về cái động. Nắng từ trên chiếu xuống, vạt nắng như đẩy bầu
trời lên cao hơn tạo trên nền trời những khoảng không sâu thắm. Không gian vì
thế mỗi lúc một rộng mở với cả ba chiều cao, rộng, sâu. “ Sâu chót vót” là một
cách dùng từ độc đáo bởi xưa nay, chót vót là từ láy dùng để miêu tả độ cao. Với
cách dùng từ này tác giả đã vừa nói được độ cao, rộng, vừa nói được độ sâu, tất
cả đều thăm thẳm vô cùng.
Nghệ thuật liệt kê cùng âm hưởng trầm buồn của câu thơ “ sông dài, trời
rộng, bến cô liêu” như một lời khái quát về bức tranh thiên nhiên. Dù là không
gian bầu trơi hay không gian mặt novws, dù nhìn ở chiều cao chiều rộng hay độ
sâu thì cái con người nhận thấy ở thiên nhiên đều là rộng dài hiu quạnh. Trong
không gian rộng lớn ấy, con người ngày càng thấy cô đơn lẻ loi vô cùng.
KHỔ 3:
“ Bèo dạt về
đâu hàng nối hàng
Mênh mông
không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi
chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ
xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh bèo dạt mây trôi là hình ảnh rất quen thuộc thường được dùng để
gợi sự trôi nổi, lênh đênh. Vẽ bức tranh Tràng Giang, Huy Cận cũng sử dụng thi ảnh
này “ bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Không phải là một cánh bèo mà là hàng nối
hàng những cánh bèo đang nổi lên trôi dạt. Khi tác giả cất tiếng hỏi bèo dạt về
đâu người đọc sẽ nhận thấy cái trôi dạt vô định của cánh bèo không chỉ có trong
hiện tại, đó còn là câu chuyện của quá khứ và câu chuyện của những ngày sắp tới
và điều đó có sự tương đồng với số phận của con người.
“Chuyến đò ngang”, “cây cầu” là hình ảnh quen thuộc, biểu tượng cho sự gắn
kết. Trong không gian mênh mông của Tràng Giang, Huy Cận cũng đi tìm những hình
ảnh này. Không tìm nhiều, Huy Cận chỉ tìm lấy một chuyến đò ngang, một cây cầu
gợi chút thân mật nhưng tuyệt đối không có. Điệp từ “ không” đã phủ nhận điều
tác giả đã mong muốn đucợ nhìn thấy, đucợ cảm nhận Không một dấu hiệu của sự gắn
kết cũng có nghĩa là cái mênh mông của Tràng Giang đã đẩy hai bờ sông trở thành
hai ốc đảo, hai tiểu vũ trụ tách biệt tuyệt đối.
Hình ảnh của những “ bờ xanh tiếp bãi vàng” luôn gợi người ta nghĩ đến sự
trf phú của làng quê. Trong “ bên kia sông Đuống”, Hoàng Cầm có viết:
“ Sông Đuống
trôi đi
Một
dòng lấp lánh
Nằm
nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Xanh
xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai
biêng biếc”
Từ bến chèm, nhìn không gian hai bờ sông, Huy Cận cũng thấy bờ xanh bãi
vàng nhưng cái để lại cho ông nhiều dấu ấn hơn cả là sự rộng dài, sự tiếp nối
trong lặng lẽ của thiên nhiên. Nếu nhìn bài thơ ở phương diện taam trạng của
tác giả ta thấy đó là bài thơ dùng không để nói có: không có một chút tìn hiệu
của niềm vui, của sự gắn kết, chỉ có sự hiện hữu thường trực của nỗi buồn sầu.
KHỔ 4:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng
cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn
vời con nước
Không khói
hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Vào lúc chiều tà, những áng mây
trắng xà xuống chân trời xếp chồng lên nhau tạo thành những núi mây. Mặt trời
trước khi lặn đã mang ánh sáng viền quanh núi mây để núi mây trở thành núi bạc.
Động từ “ đùn” đã khiến hình ảnh thơ không tĩnh lại mà đang vận động rât smanhj
mẽ với sực mạnh nội tạng của nó. Núi mây đang đucợ đẩy lên mỗi lúc một cao chất
ngất và bức tranh thiên nhiên trở nên kì vĩ, tráng lệ đẹp như một bức khảm
trai.T huở xưa trong bài Thu hứng, Đỗ Phủ từng viết:
“Giang gian ba lãng
kiêm thiên dũng
Tái thượng phong
vân tiếp địa âm.”
Nguyễn Công Trứ dịch là:
“Lưng trời sóng rợn
lòng sông thẳm
Mặt đất may đùn cửa
ải xa.”
Khi nỗi buồn sầu không thể giải tỏa, thi sĩ chỉ còn biết tìm về hình ảnh
những mái nhà ấm áp của quê hương để nương náu. Vậy nên bài thơ mới khép lại bằng
nỗi nhớ nhà, nhớ quê tha thiết. Ngày trước, Thôi Hiệu viết:
“Quê hương khuất
bóng hoàng hôn
Trên sông khói
sóng cho buồn lòng ai”
Ngày nay Huy Cận viết không khỏi hoàng hôn cũng nhớ nhà. Thôi Hiệu thời
Đường thấy khỏi sóng mới nhớ nhà tha thiết, còn Huy Cận thì không cần tín hiệu
gợi nhớ từ ngoại cảnh vẫn nhớ nhà và đó là một nỗi nhớ luôn thường trực và khắc
khoải trong lòng thi sĩ.
NGHỆ THUẬT:
Thể thơ thất ngôn, giọng thơ trầm buồn vừa có tín hiệu của sự đổ mới vừa
mang màu sắc của thơ Đường, thơ Tống, nghệ thuật đối lập tương phản, lấy động tả
tĩnh, gợi nhiều hơn tả, sử dụng từ láy, kết hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại….
LUYỆN TẬP
Đề 1: Phân tích vẻ đẹp cổ điển trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Hướng dẫn:
+ Giải thích: cổ điển là những yếu tố thuộc về thời xưa đã thành chuẩn mực
thẩm mĩ trong thi ca
+ Cơ sở tạo nên vẻ đẹp cổ điển trong Tràng Giang
Nội dung: sử dụng những thi liệu cổ, nỗi sầu của một
“cái tôi” cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người,
tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà tha thiết
Nghệ thuật: -Nhịp thơ
mang chất nhạc cổ điển 4/3, 2/2/3, phối hợp thanh điệu hài hòa
- Nghệ
thuật tả cảnh thủ pháp vẽ mây nẩy trăng, lấy động tả tĩnh
- Nghệ
thuật tả cảnh ngụ tình, sử dụng những hình ảnh ước lệ quen thuộc
-Ngôn
ngữ: sử dụng nhiều từ Hán việt ( tràng giang, cô liêu….)
è Tràng Giang của Huy Cận đẹp vì những hình ảnh,
những từ ngữ đẹp như thơ cổ, cho người đọc thưởng thức những bức tranh thân
quen thuộc của phong cảnh sông nước quê hương.
– Tràng Giang của Huy Cận thực sự
là một bài thơ của thơ hiện đại, mang cảm nhận về nỗi buồn và nỗi cô đơn của
con người hiện đại, nhất là con người trong khoảng những năm ba mươi của thế kỉ
trước.
Đề 2: Cảm nhận về cảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Hướng dẫn:
+ Phân tích khố thơ 1,2,3,4 để chỉ ra nét đẹp của thiên nhiên trong thơ
Huy Cận
Khổ 1: bức tranh thiên nhiên xuất hiện với những thi ảnh quen thuộc như
sóng, thuyền, nước, củi…
Khổ 2: bức tranh thiên nhiên mở rộng với không gian 3 chiều gây cảm giác
rợn ngợp cho con người
Khổ 3: bức tranh thiên nhiên rộng dài trong không gian, không có lấy một
tín hiệu của sự gắn kết
Khổ 4: bức tranh thiên nhiên đi cùng nỗi nhớ nhà của thi sĩ
Nhận xét: Bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong bài thơ Tràng giang
là bức tranh bao la rộng lớn của cảnh trời nước mênh mông. Bức tranh đó tuy đẹp
mà buồn quạnh vắng và cô liêu, một bức tranh mang màu sắc cổ điển mà hiện đại,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghệ thuật miêu tả bức tranh thiên nhiên: tả cảnh ngụ tình, sử dụng nhiều
từ láy, nghệ thuật đối lập tương phản….