Phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta chỉ thấy một bức tranh u tối mà người họa sĩ vẽ ra nó mang tên bi kịch. Có thể nói, con số không đã gói trùm lên lá số tử vi của cuộc đời Chí . Bi kịch về cuộc đời Chí đã xuyên suốt toàn tác phẩm và nếu như phải chọn một nhan đề khác, có lẽ Nam Cao đã đặt tên tác phẩm của mình là “Bi kịch”. Và đỉnh điểm bi kịch mà Chí Phèo phải chịu đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch là gì? Bi kịch là mâu thuẫn giữa hiện tại và khát vọng. Hiện tại không có khả năng giúp cá nhân thực hiện khát vọng từ đó đẩy những cá nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện. Nhưng sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường, khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc loài với vật, hắn không phải là một con người. Trong tiếng chửi mở đầu tác phẩm, đối tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy có thể thấy, con người triền miên say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn them được ai đó chửi vì chửi hắn có nghĩa là vẫn có người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ cô đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để mà chửi, để mà kêu gào, để mà được công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng sợ vì đó là sự im lặng của đoạn tuyệt và ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.
Có thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy là do bà cô. Nhân vật đại diện cho định kiến. Cuộc đời bằng phẳng mà Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến và chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi mắng Thị Nở, bà cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy Chí Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.
Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở. Thị là một người xấu, nghèo, vô duyên, lại có mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng Nam Cao đã xây dựng một hàng rào giây thép và rắc vôi xung quanh nhân vật này. Nam Cao gọi Thị Nở là “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí. Đây chính là bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tang. Vốn dĩ Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.
Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng cháng. Cái cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị tê liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở. Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh, như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng- nơi mà hắn đã từng bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau và càng uống thì hơi cháo hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương. Nó cứ hiện lên trong lòng Chí một nỗi day dứt không nguôi. Và như thể có điều gì đau đớn không chịu nổi khi nhà văn miêu tả một người đàn ông mà trước đó được biết đến như một con quỷ nay lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.
Và từ tuyệt vọng, Chí đã cầm giao giết Bá Kiến bởi hắn biết cả bà cô và Thị Nở đều không có lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại chính là câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy là câu hỏi mang tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng. Cái chết của Chí Phèo là cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi chết đi không ai khóc thương. Đây chính là bi kịch. Và bi kịch lại chồng lên bi kịch khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo có mà còn cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng có thể thấy được khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.
Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong văn học hiện thực phê phán 1930-1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện đại.
Người viết: Nguyễn Minh Hòa
Hết