Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác riêng và có thể thành công trên mảnh đất đó. Đối với Nguyên Ngọc người được mệnh danh là nhà văn của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ núi non. Tác phẩm “Rừng xu nu” chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó mang lại quả là lớn lao. Đó còn là một bản anh hùng ca như nói về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, thế hệ trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường biết bao nhiêu
Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh thật ấn tượng đó là những rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một rừng xà nu bất chấp mưa bom bão đạn và như đã vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù hung dữ. Vượt qua tất cả chỉ để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, có thể nói rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc ở đây “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào trong nó.
Những câu văn như thật rõ, thật hay khi miêu tả rừng xa nu trong chiến tranh “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương”. Tác giả thật tinh tế khi đã miêu tả hình ảnh của cây xà nu rất gần với con người “Ở những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại. và đặc quệnh thành từng cục máu lớn”. Có thể nói những câu văn trên như cắt cứ, như ám ảnh người đọc hơn, để mỗi khi chúng ta đọc lên hình ảnh của những cây xà nu đó nhưng lại hệt như là con người của làng Xô-man kiên cường vậy. Lúc này đây thì ngay cả “đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vươn rất nhanh, thay thế những cày đã ngã. Cứ thể hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”.
Nguyên Ngọc đã miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú trong người đọc. Dường như hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa cũng như là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày mà dân ta đồng khởi chống Mĩ. Với bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa dường như đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiển hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man. Rừng xà nu như những con người đẹp của buôn làng. Và không sai khi nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam kiên cường.
Có thể nói cái tài của Nguyễn Trung Thành ở đây chính là việc tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ. Dường như nhà văn đã tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, và cũng đã phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó chính là nhân vật Tnú và Dít. Và có thể nói chính sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Tnú được xây dựng lên là một nhân vật mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Cậu bé Tnú đến với cách mạng thật tự nhiên ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Và cũng chính Tnú đã chững kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng. Ta có thể thấy ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi là phẩm chất tốt đẹp của Tnú. Và trong một lần đi liên lạc, Tnú đã bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn em về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: Cộng sản ở đây này”. Đó không phái là câu trả lời mà là một lời thách thức, thật dũng cảm ! Và chính bởi những lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát khỏi ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh dường như đã hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… ” chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.
Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù. Có thể nói Tnú còn chính là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân lao động dường như cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên dữ dội, và tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết” hay cả tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Có thể nói chính sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng non sông, đất nước với một nhận định sâu sắc hơn. Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh dường như đã kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng la thằng Dục cả”. Rõ ràng, ta đã thấy với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, dường như mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó không gì bằng là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng với những thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội của dân làng Xô Man. Ba năm trước đây khi mà Tnú ra đi. Dit “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về với bản làng thì dường như cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải là một sự ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dit đã bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, và sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dit. Và Dít như chỉ còn biết đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”. Không chỉ gan góc không đâu, nhân vật Dit còn là một cô bé cương nghị. Và có lẽ chính vì Dít đã chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dit “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế mà Dit đã lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng. Và trong Dit cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, và đã có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dit, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dit như vậy đó, quả thật gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như Dít chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú và Dit chính là nhân vật tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng cùa cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dit được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng cùa người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man. Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quăc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu cho con cháu đời đời sau. Có lẽ bởi vậy mà cho nên cụ luôn luôn nhắc nhờ con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất cúa quê hương. Cụ như đã chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu rằng “Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phái cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng thành công nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, ở cụ dường như đã kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyễn Trung Thành như đã muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.
Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Và chính với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Tuổi của bé Heng đáng lẽ ra là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng lúc này đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh ta đi trước.
Đọc tác phẩm “Rừng xà nu” ta như lại có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện đường như bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đã như đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi lại như ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tướng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ. Những mảnh đời quá khứ, những mảng đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù hung bạo nhất. Qua đó để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ phải kế tục, phát huy xứng đáng với cha ông. Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của “Rừng xà nu”. Ta có thể thấy được hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tố chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn Nguyễn Trung Thành như có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm. Và có thể nói trong hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú dường như cũng đã tỏ rõ đức kiên trung quả cảm cùa mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú lại như rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật thành công, Nguyễn Trung Thành có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao. Vfa dường như những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh tụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn. Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay như chùi đi hai giọt nước mắt lớn, chứa chan khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong ‘Rừng xà nu’ không chỉ đã làm rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình, nhà văn Nguyễn Trung Thành thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của “Rừng xà nu’ dường như cũng rất đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về một quá khứ đau thương của cụ Mết. Và có khi lại như tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tường về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của “Rừng xà nu” dường như cũng giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ cùa lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm cho đến tận ngày nay.
“Rừng xà nu” chính là chuyện của con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Từ chính câu chuyện của Tnú và của làng Xô Man, tác giả dường như đã nói tới sự trưởng thành của cách mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc tác phẩm “Rừng xà nu hôm nay” dường như ta vẫn thấy âm vang cái hào hùng cùa một thời chống Mĩ, một thời có những con người đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai….