SO SÁNH HAI ĐOẠN THƠ

Đề: Cảm nhận về hai đoạn thơ:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi

(“Đất Nước” – Trích “Trường ca mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

(“Sóng” – Xuân Quỳnh)

I. Nêu vấn đề:

Đề tài tình yêu là một trong những đề tài làm tốn nhiều giấy mực nhất đối với các thi nhân. Cuộc sống càng muôn màu thì tình yêu càng muôn vẻ, có bao nhiêu người yêu nhau thì có bấy nhiêu cách cảm nhận về tình yêu. Bằng sự cảm nhận của riêng mình, mỗi thi sĩ lại khoác cho tình yêu ấy một vẻ đẹp khác nhau. Điều đó đã được Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh thể hiện rất rõ trong hai đoạn thơ trích trong hai tác phẩm “Đất Nước” được sáng tác năm 1971 in trong trường ca “Mặt đường khát vọng” và “Sóng” sáng tác năm 1967 in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi

(“Đất Nước” – Trích “Trường ca mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

(“Sóng” – Xuân Quỳnh)

Khi chúng ta đi đối chiếu so sánh hai đoạn thơ sẽ thấy được điểm tương đồng và khác biệt một cách độc đáo của hai đoạn thơ, hai phong cách, hai thi sĩ này.

II. Giải quyết vấn đề:

1. Giới thiệu vài nét về hai tác giả, hai tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và vị trí hai đoạn thơ cần phân tích:

* “Sóng” – Xuân Quỳnh:

- Nhà thơ của hạnh phúc đời thường: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường, bình dị. Cái tôi độc đáo, giàu vẻ nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm xúc lo âu về sự nhạt phai, đổ vỡ, cũng những dự cảm bất trắc.

- Bài thơ “Sóng”, viết năm 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ thứ 5 miêu tả nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “em”.

* “Đất Nước” – Nguyên Khoa Điềm:

- Thơ Nguyễn Khoa Điềm cuốn hút người đọc bằng cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng, ông cất lên tiếng nói của một người tri thức thiết tha, gắn bó với quê hương, giàu ý thức trách nhiệm với nhân dân, đất nước.

- Đoạn trích “Đất Nước” là phần đầu của chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm này được hoàn thành năm 1971, thể hiện sự thức tỉnh của thế hệ trẻ miền Nam về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước. Đoạn thơ trên thuộc phần đầu chương V.

2. Điểm giống nhau:

- Trước hết, điểm giống nhau giữa hai đoạn thơ chính là viết về tình yêu đôi lứa trong nỗi nhớ, niềm thương.

+ Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ, có ai yêu mà chưa bao giờ nếm mùi của cảm giác nhớ mong, khắc khoải. Tất cả biểu hiện của nỗi nhớ trong tình yêu rốt cuộc cuối cùng chỉ là khát khao hướng tới người mình yêu, mong muốn được ở gần người trong trái tim mình.

Nỗi nhớ day dứt trong tình yêu

+ Trong ca dao xưa chẳng phải người xưa họ cũng đã từng diễn tả cái nỗi nhớ trong tình yêu rồi hay sao:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than

Hay

Đêm nằm lưng chẳng tới giường

Mong cho mau sáng ra đường gặp anh”.

+ Trong đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, để diễn tả nỗi nhớ trong tình yêu, tác giả đã mượn hình ảnh của chiếc khăn – vật giao ước kết đôi mà biểu hiện nỗi nhớ:

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Tín vật tình yêu chính là điểm giao kết cho đôi bạn tình. Từ xưa đến nay, những người yêu nhau thường muốn thể hiện sự khăng khít gắn bó mặn nồng, thường lấy một tín vật nào đó mà kết duyên, giao ước. Họ coi đó như là “sợi chỉ hồng” của ông Tơ bà Nguyệt se duyên kết đôi. Hình ảnh chiếc khăn được nhắc đến trong đoạn thơ là một hình ảnh quen thuộc trong ca dao xưa:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt …

Đó là chiếc khăn tín nghĩa, biểu trưng cho tình cảm thật đẹp, thật trong sáng trong nỗi nhớ niềm thương.

Chiếc khăn mang đầy tình nghĩa của anh và em

+ Còn trong đoạn thơ của bài “Sóng”, tình yêu khát vọng của người phụ nữ “khát khao sống, khát khao yêu” dù bình dị nhưng rất đỗi mãnh liệt này không cần đến vật giao ước, kết đôi mà vẫn diễn tả được hết thảy cái nỗi nhớ đến điên cuồng mãnh liệt. Bởi tình yêu ấy đã vượt qua mọi chiều kích giới hạn chật hẹp để đến với tình yêu (sâu – rộng), vượt qua mọi bến bờ của vũ trụ, xuyên qua không gian, thời gian ngày, đêm và kết tụ ngay cả khi “thức” lẫn khi “ngủ” của Xuân Quỳnh. Nó rợn ngợp giống như nỗi nhớ đã bao trùm giăng mắc mọi thứ xung quanh như ám vào vạn vật nên cần chi “vật giao ước” mà thể nghiệm nỗi lòng thương yêu. Cho nên tình yêu ấy với nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, khắc khoải hơn bao giờ hết. Nó không đơn thuần chỉ là nỗi nhớ bình thường vụt đến rồi vụt tan mà nỗi nhớ ấy đã trở thành gánh nặng tâm tư trong lòng người con gái đang yêu mất rồi.

- Điểm tương đồng của hai đoạn thơ ấy còn là: cả hai thi sĩ đều rất tài tình dụng công mượn hình ảnh, sự vật, hiện tượng tự nhiên xung quanh để diễn tả tâm tư tình cảm của mình.

+ Với đoạn trích trong bài “Đất Nước”, tác giả đã kể đến những sự vật xung quanh mỗi chúng ta. Đó là trường học, là nơi sinh hoạt hằng ngày “nơi em tắm”, là nơi cư trú trú, định cư “nơi chim về, nơi rồng ở”. Tất cả những sự vật xung quanh mỗi chúng ta ấy đều là những cái thật bình dị, thân thương mà chúng ta ít chú ý đến. Tác giả nhắc đến mỗi sự vật ấy đều gắn bó với hai tiếng “Đất Nước” chính là muốn truyền tải tư tưởng: Đất Nước không tồn tại ở đâu xa xôi mà nó hóa thân, hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta. Đó chính là mỗi sự vật mà chúng ta nhìn thấy, tất cả những sự vật nhỏ bé ấy đều góp phần làm nên dáng hình, diện mạo Đất Nước.

+ Còn “Sóng” của Xuân Quỳnh cũng vậy, nữ sĩ đã mượn hiện tượng tự nhiên của sóng biển để soi vào nhịp lòng mình, nhịp đập của con tim đang rung lên đồng điệu với nhịp sóng, đang bùng lên khát vọng trong tình yêu và nỗi nhớ:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Những đợt sóng dâng trào, sóng tiếp sóng ào ạt lúc thì lăn tăn gối lên nhau trên “mặt nước”, lúc lại luôn tiềm ẩn cái dữ dội, ồn ào “lòng sâu” dưới đáy bề đại dương bao la thăm thẳm. Tất thảy những đợt sóng đều cuồn cuộn xô đuổi nhau đến tận chân trời, đưa sóng đến gần hơn với bờ. Bởi bờ chính là điểm đến của sóng, là chỗ dựa vững chắc cho điểm về của tình yêu, của sự bình yên và phẳng lặng.

3. Sự khác biệt:

- Bên cạnh điểm giao thoa, kết sóng thì giữa hai đoạn thơ còn có điểm khác biệt rõ ràng. Nhưng chính điểm khác biệt ấy đã tạo nên cái độc đáo, sức hấp dẫn riêng của mỗi phong cách thi nhân.

+ Tình yêu đôi lứa trong đoạn thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với tình yêu Đất nước, tình yêu lứa đôi dưới con mắt của ông là một thứ tình yêu “hóa thân”, “nảy mầm” nên tình yêu đất nước. Chính tình yêu đôi lứa cũng là một yếu tố góp phần làm nên diện mạo của một đất nước trù phú, tươi vui. Điều này, cũng đã được các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm ý thức rất rõ, ta có thể lấy dẫn chứng tiêu biểu trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng long trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”

Tình yêu đôi lứa hòa vào tình cảm Đất Nước

Còn trong đoạn thơ của bài “Sóng”, tình yêu luôn tuyệt đối hóa trong tình yêu riêng tư, tình yêu đời thường. Cái chất đời thường trong tình yêu gắn liền với nỗi nhớ ấy đã được Xuân Quỳnh diễn tả thông qua hình tượng “sóng” với sự phân thân của nhân vật trữ tình “em”:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Đó là một “cái tôi” tràn đầy cảm xúc khi đang tự lòng mình diễn tả nỗi nhớ người yêu trào qua đầu ngọn bút. Tất cả như cuồng nhiệt, như say mê mà muốn nhấn chìm đi mọi thứ xung quanh. Chả thế mà bài thơ vốn được viết theo thể ngũ ngôn nay đến khổ thơ này đã tự dôi ra hẳn hai câu thơ và nhà thơ lại còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ ấy bằng chính nhịp đập của trái tim mình thì quả thật cái nỗi nhớ của cái tôi cá nhân ấy không có một bút lực nào có thể tả xiết. Trong một bài thơ khác của Xuân Quỳnh, nữ sĩ cũng đã từng thẳng thắn bộc bạch hết mọi tâm can của mình hướng tới người mình yêu. Đó là biểu hiện của một trái tim đang yêu chân thành, đằm thắm:

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thường ai chả có

Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa

Vẫn yêu anh cả khi chết đi rồi”

+ Đoạn thơ “Đất Nước” sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với nghệ thuật chiết tự từ “Đất là …” “Nước là …” cùng với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh sự vật tự nhiên đã có tác dụng diễn tả thật đắc tư tưởng Đất Nước của mình. Hướng người đọc đến sự hóa thân kỳ diệu của đất nước trong từng sự vật nhỏ bé, đơn sơ, bình dị đến lạ thường.

+ Đoạn thơ trong “Sóng” của Xuân Quỳnh sử dụng thể ngũ ngôn với việc mượn hình ảnh sóng biển để soi tỏ nhịp đập thổn thức của trái tim người phụ nữ đang yêu có tác dụng diễn tả thật đắt nỗi nhớ niềm thương và tấm lòng thủy chung son sắt của một tâm hồn đa sầu sa cảm.

Như ta đã biết, nghệ thuật luôn đòi hỏi tính sáng tạo, mỗi người nghệ sĩ luôn cố gắng tạo cho mình một phong cách nghệ thuật riêng. Vì thế các tác phẩm tạo ra mới không bị nhòe lẫn vào các tác phẩm của nhà thơ khác.

Không nằm ngoại lệ, Nguyễn Khoa Điềm luôn thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Với sự ý thức về vai trò, chức năng của một người nghệ sĩ, chiến sĩ thì đối với ông, thơ ca chính là ngọn nguồn cảm hứng viết lên những bản tình ca bất hủ về Đất Nước. Cho nên tình yêu đôi lứa dưới con mắt của nhà thơ nó chính là một phần biểu hiện của một tình yêu đất nước muôn đời.

Còn thi sĩ Xuân Quỳnh thì ngược lại, bà tìm cho mình một tiếng nói riêng trong trái tim của một người phụ nữ hồn hậu, đa sầu đa cảm với những khoảnh khắc rung động trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy luôn cháy rực ngọn lửa trongc các trang thơ của Xuân Quỳnh thật muôn màu muôn vẻ. Vì thế, dưới con mắt của thi sĩ, tình yêu luôn được cụ thể hóa trong một tâm hồn khao khát hướng tới hạnh phúc riêng tư, đời thường.

4. Lý giải sự khác biệt:

- Do hoàn cảnh sáng tác.

- Do phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của mỗi nhà thơ.

III. Kết thúc vấn đề:

Như vậy, qua việc cảm nhận ở trên, ta thấy rằng cả hai đoạn thơ đều có chung đặc điểm viết về tình yêu đôi lứa nhưng mỗi thi sĩ lại có một tiếng nói riêng cho tư tưởng của bản thân mình. Với Nguyễn Khoa Điềm tình yêu đất nước là vĩnh cửu, với Xuân Quỳnh tình yêu đôi lứa là muôn thuở muôn đời. Chính mỗi người lại có một phong cách thơ và cách nhìn nhận riêng của mình về cuộc sống, đều góp phần đắc lực cho vườn thơ dân tộc thêm sáng trong và tỏa hương thơm ngát.

Bài viết gợi ý: