SO SÁNH HAI ĐOẠN THƠ

Đề: Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”

(“Việt Bắc” – Tố Hữu)

Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương

(“Sóng” – Xuân Quỳnh)

I. Nêu vấn đề:

Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có ít nhất một niềm thương, nỗi nhớ. Niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc. Với các thi nhân, cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng người. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến được với trái tim. Đoạn thơ:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”

trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc như thế.

II. Giải quyết vấn đề:

1. Giới thiệu về tác giả, bài thơ, đoạn thơ:

- Nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại được nhiều bạn yêu thơ mến mộ. Nếu nhà thơ Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình.

   

Tố Hữu và Xuân Quỳnh

Mỗi tác giả đã tạo ra thơ của mình với mỗi vẻ đẹp riêng. Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình, chính trị, mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, giọng của tình thương mến, đậm đà tính dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh lại in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết trong khát vọng về một hạnh phúc đời thường.

- Bài thơ “Việt Bắc” viết về cách mạng, còn bài thơ “Sóng” hướng tới đề tài tình yêu đôi lứa.

2. Cảm nhận về hai đoạn thơ:

a. Đoạn trích bài “Việt Bắc”:

- Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy., Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ trích trong bài “Việt Bắc” là lời người ra đi đáp lại tình cảm của người ở lại.

- Bốn câu thơ giống như một lời thề nguyền, lời khẳng định gắn bó thủy chung trước sau như mộ mà những cán bộ cách mạng miền xuôi muốn gửi tới đồng bào Việt Bắc. Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ và lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “mình - ta” được sử dụng một cách linh hoạt. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Việt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng như của “mình”. Tình cảm của người về với Việt Bắc là thứ tình cảm thắm thiết, mặn mà, gắn chặt trong tim, ghim chặt trong lòng.

Nghĩa tình sâu nặng của người ra đi và người ở lại

Phép điệp từ “ta”, “mình” kết hợp với sự hoán đổi “mình”, “ta” đã thể hiện sự gắn bó bền chặt trong tình cảm giữa hai nhân vật trữ tình. Nhịp thơ 3/3 đăng đối, cân xứng càng làm nổi bật tình cảm thủy chung một lòng của đôi bạn. Tình cảm ấy được khẳng định một lần nữa khi người về cất lên lời hứa:

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

mặn mà” là tình cảm chân thành, thắm thiết, “đinh ninh” là trước sau vẫn thế, không bao giờ thay đổi. Tình cảm của ta đối với mình luôn bền vững và bất chấp thời gian, không gian có đổi dời. Sự khẳng định ấy đã xóa tan nỗi băn khoăn, lo lắng của người ở lại. Từ láy “đinh ninh” được đặt cuối câu thơ như một lời hứa chắc chắn, trước đây, bây giờ hay mãi mãi về sau vẫn có ta và mình, vẫn không thể nào quên được những ngày “Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”.

Tình nghĩa kháng chiến Việt Bắc

Tình cảm ấy còn được khẳng định bằng một hình ảnh so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. Trong tiềm thức của người Việt Nam, nước trong nguồn là dòng nước không bao giờ vơi cạn, chảy bất tận. Ý thơ trở nên sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng cặp từ so sánh tăng tiến “bao nhiêu…bấy nhiêu”. Tố Hữu đã học được ở ca dao:

Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói, em thương mình bấy nhiêu

Câu thơ của Tố Hữu, đem “nước trong nguồn” so sánh với “nghĩa tình”, bao nhiêu nước thì bất nhiêu tình nghĩa ta cùng nhau vun đắp. Mượn cái vô hạn của nước để nói cái vô tận của nghĩa tình kháng chiến. Tố Hữu đã thể hiện một tình yêu vô bờ bến đối với quê hương cách mạng. Nhưng chỗ độc đáo của câu thơ là ở hình ảnh so sánh “nguồn bao nhiêu nước” làm ta gợi nhớ đến câu ca dao “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Trong ca dao, hình ảnh nước nguồn được ví với công lao, với tình yêu vô bờ, thiêng liêng của mẹ, tình mẹ thương con không bao giờ vơi cạn. Nghĩa tình đối với quê hương cách mạng cũng chan chứa, dồi dào, bao la, vô tận như vậy. Đó là sự so sánh giữa một cái vô tận với một cái bất tận, khẳng định: nghĩa tình với quê hương cách mạng, với kháng chiến là không thể nào kể xiết, là thủy chung mãi mãi. Với hình ảnh so sánh đầy ý nghĩa này, Tố Hữu đã nói lên được lòng biết ơn vĩnh viễn đối với Việt Bắc, đồng thời biến một tình cảm chính trị thành tình cảm ruột thịt, làm sáng ngời truyền thống đạo lí dân tộc ta bao đời nay.

b. Đoạn trích “Sóng”:

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ được viết khi Xuân Quỳnh còn trẻ khoảng 25 tuổi nhưng đã trải qua không ít những thăng trầm, đổ vỡ trong tình yêu.

Ở khổ thơ trên “Sóng” được khám phá theo chiều rộng của không gian ở hai miền “xuôi”, “ngược”. Sóng dù xuôi về phía Bắc, dù ngược về phương Nam thì cuối cùng vẫn hướng về bờ:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

Cách lạ hóa ngôn từ: thông thường người ta hay nói xuôi Nam, ngược Bắc nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngược Nam, dường như cái logic của lí trí thông thường đã bị lu mờ, chỉ còn lại hai miền xuôi ngược để trăn trở tìm nhau, để khao khát bên nhau. Cách nói ấy cũng khiến người đọc hình dung về những gian nan, cách trở mà trái tim yêu phải vượt qua.

Con sóng kia muôn đời thao thức để khắc khoải xuôi ngược tìm bờ thì em cũng chỉ duy nhất hướng về “phương anh”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh khi đưa khái niệm không gian để nói về mức độ thủy chung, bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc là của vũ trụ này, chỉ có duy nhất nơi anh là phương trời của em. Giữa cuộc đời rộng lớn, thì anh vẫn mãi là bến bờ hạnh phúc, là nơi duy nhất anh tìm về. Ý thơ bộc bạch rất thật, sáng lên vẻ đẹp của tình yêu chung thủy. Hóa ra ở trung tâm nỗi nhớ là anh nên dẫu có đi về phương nào thì em cũng hướng về phương anh. Câu thơ giống như một lời nguyện thề thủy chung, da diết, đằm thắm.

Nếu ở khổ 5 nhân vật trữ tình bộc bạch “lòng em nhớ đến anh” thì ở đây cảm xúc đã dâng lên một bậc “Nơi nào em cũng nghĩ”. “Nghĩ” có cả yêu thương, mong nhớ, có cả phấp phổng lo âu, hờn ghen, giận dỗi. Anh trở thành ý nghĩa thường xuyên, thường trực trong lòng, canh cánh nỗi đau đáu trong tim em. “Nhớ” là tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên thì “nghĩ” là tự suy tư, chín chắn, sâu sắc. Người con gái khẳng định sự duy nhất, tuyệt đối gắn bó thủy chung trong một tình yêu bền vững. Khổ thơ cho ta thấy tình yêu của người phụ nữ, sự son sắt một lòng duy nhất. Nhân vật trữ tình đã trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Khẳng định tình yêu thủy chung cũng là khao khát, là khát vọng rằng người yêu thương phải thực sự xứng đáng với mình.

3. Điểm tương đồng và khác biệt:

- Tương đồng:

Cả hai đoạn thơ đều là những rung động, những xúc cảm nhớ thương của một tình yêu của con người với nhau, tình yêu đất nước trong lòng người bởi một tình cảm đẹp đẽ, sự thủy chung một lòng không đổi thay, trước sau như một. trên phương diện nghệ thuật, cả hai đoạn thơ đều là những ngôn từ giản dị nhưng lại giàu giá trị nghệ thuật. Giọng thơ trữ tình tha thiết nhưng cũng khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, đinh ninh như một lời thề từ tận trong tim.

- Khác biệt:

+ Tình cảm trong đoạn thơ “Việt Bắc” là tình cảm lớn lao, tình cảm cách mạng, tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt Bắc ân tình đùm bọc, cưu mang trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến trường kì. Còn tình cảm trong “Sóng” của Xuân Quỳnh là tình yêu đôi lứa, cảm xúc của chủ thể trữ tình “em”, một người phụ nữ đang yêu, vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân nhưng cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ nhung dâng trào. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ chỉ duy nhất hướng về một nơi ở phương anh một cách chân thật và tha thiết nhất.

+ Đoạn thơ “Việt Bắc” sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào như một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Sóng – đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật “sóng”. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần dữ dội, mãnh liệt.

+ Vẻ đẹp trong thơ Tố Hữu luôn gắn bó với ca dao dân ca thật đậm đà. Còn Xuân Quỳnh thì lại nồng cháy, tha thiết.

III. Kết thúc vấn đề:

Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được sự đặc sắc độc đáo của hai giọng điệu thơ mà cũng thấy được vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam luôn tràn ngập yêu thương, đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa sắt son.

 

Bài viết gợi ý: