SOẠN BÀI :
SỐ TỪ VÀ LƯỢNG TỪ
I : SỐ TỪ :
1 : Các từ được in đậm trong những câu sau bổ sung ý nghĩa cho từ nào trong câu ? Chúng đứng ở vị trí nào trong những cụm từ và bổ sung ý nghĩa gì ?
a : Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những thứ gì, vua bảo: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh trưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”.
(Sơn Tinh, Thuỷ Tinh)
b : Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu ,ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức.
-Các từ hai, một trăm, chín, một, sáu.. đứng ở vị trí nào trong cụm từ và bổ sung ý nghĩa : Các từ trên là số từ, bổ sung ý nghĩa về số lượng cho danh từ đứng sau nó.
2 . Tìm thêm các tư có ý nghĩa khái quát và công dụng như từ đôi:
- một đôi đũa
-một tá bút chì
- một cặp bánh giày
- một chục trứng gà
3.Từ đôi trong các cụm từ trên có phải là số từ không? vì sao?
-Một đôi, một đôi đũa là các cụm danh từ. Phần trung tâm gồm có đôi là danh từ chỉ đơn vị, đũa là danh từ chỉ sự vật, một là số từ.
Lưu ý :
-Số từ là những từ chỉ số lượng và thứ tự của sự vật. Khi biểu thị số lượng sự vật, số từ thường đứng trước danh từ. Khi biểu thị thứ tự, số từ đứng sau danh từ, ví dụ: thứ sáu.
-Cần phân biệt giữa số từ với những danh từ chỉ đơn vị gắn với ý nghĩa số lượng, ví dụ một đôi: đôi không phải là số từ, là danh từ chỉ đơn vị (một đôi đũa). Các danh từ chỉ đơn vị có ý nghĩa gắn với số lượng thường gặp như: đôi, tá, cặp, chục,…
II : LƯỢNG TỪ :
1 . Nghĩa của các từ in đậm trong những câu dưới đây có gì giống và khác nghĩa ủa số từ ?
-[...] Các hoàng tử phải cởi giáp xin hàng. Thạch Sanh sai dọn một bữa cơm thiết đãi những kẻ thua trận. Cả mấy vạn tướng lĩnh, quân sĩ thấy Thạch Sanh chỉ cho dọn ra vẻn vẹn có một niêu cơm bé tí xíu, bĩu môi, không muốn cầm đũa.
(Thạch Sanh)
a, Dựa vào các từ in đậm, hãy xác định các cụm danh từ.
Trả lời : các hoàng tử; những kẻ thua trận; cả mấy vạn tướng lĩnh
b, So sánh các từ in đậm trên với số từ (về vị trí so với danh từ, về ý nghĩa).
Các từ in đậm trên là lượng từ, chúng giống với số từ ở vị trí cùng đứng trước danh từ, khác với số từ ở ý nghĩa:
- Số từ chỉ số lượng hoặc thứ tự của sự vật;
- Lượng từ chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật.
-Người ta chia lượng từ thành hai nhóm: nhóm chỉ ý nghĩa toàn thể (ví dụ: cả, tất cả, tất thảy,…) và nhóm chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối (ví dụ: các, những, mọi, mấy, mỗi, từng,…).
c , Đặt 3 câu trong đó có lượng từ mang ý nghĩa toàn thể, 3 câu có lượng từ mang ý nghĩa tập hợp hay phân phối ?
- Câu có lượng từ mang ý nghĩa toàn thể như: Tết nguyên đán, tất cả học sinh được nghỉ học một tuần.
- Câu có lượng từ mang ý nghĩa tập hợp hay phân phối như: Cô giáo chủ nhiệm căn dặn từng học sinh trước khi nghỉ hè.
Lưu ý :
Lượng từ là những từ chỉ số lượng ít hay nhiều của sự vật
Dựa vào vị trí trong cụm danh từ , có thể chia lượng từ thành 2 nhóm :
- Nhóm từ ý nghĩa toàn thể
- Nhóm chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối
II. LUYỆN TẬP :
1. Tìm số từ có trong bài thơ sau. Chúng thuộc loại số từ nào?
Không ngủ được
Một canh… hai canh… lại ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.
(Hồ Chí Minh)
- Số từ chỉ số lượng: một canh, hai canh, ba canh, năm cánh;
- Số từ chỉ thứ tự: canh bốn, canh năm.,
2. Các từ in đậm trong hai dòng thơ sau thuộc loại số từ nào? Chúng được dùng với ý nghĩa ra sao?
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm.
(Tố Hữu)
-Các từ trăm, ngàn, muôn là số từ chỉ số lượng, có ý nghĩa tượng trưng cho số lượng rất nhiều.
3. So sánh ý nghĩa của từ “từng” và “mỗi” trong hai câu sau:
a) Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi [...].
(Sơn Tinh, Thuỷ Tinh)
b) Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng rút lui mỗi người một ngả.
Trả lời : Từ láy thút thít trong câu trên miêu tả sắc thái tiếng khóc của công chúa Út.
4. Những từ láy nào thường được dùng để tả tiếng cười, giọng nói, dáng điệu?
- Từ láy tiếng cười: khanh khách, khúc khích, khà khà, sằng sặc, hô hố, ha hả, hềnh hệch, ...
- Từ láy tả giọng nói: ồm ồm, khàn khàn, thỏ thẻ, nhỏ nhẻ, léo nhéo, lè nhè, ...
- Từ láy tả dáng điệu: lom khom, lừ đừ, lừ lừ, lả lướt, khệnh khạng, nghênh ngang, khúm núm, ...