Bài làm

Thi phẩm “Tiếng hát con tàu” đã được in trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” (1960) của Chế Lan Viên. Sự ra đời của bài thơ này dường như có liên quan mật thiết đến một sự kiện kinh tế – xã hội. Đó chính là vào những năm 1985 – 1960 có một phong trào vận động nhân dân mà chủ yếu là thanh niên miền xuôi lên mở mang xây dựng kinh tế ở miền núi. Dường như lớp thanh niên hồi ấy rất say mẽ bài thơ “Lên miền Tây” – Bùi Minh Quốc (Dương Hương Ly) – một cây bút trẻ đương thời với những câu thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn:

“Lứa tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường”

Thế nhưng bài thơ đặc sắc “Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên không đơn giản chỉ là sự minh họa tuyên truyền phục vụ cho một chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước. Với tác giả Chế Lan Viên, sự kiện kinh tế – xã hội ấy chỉ là một gợi ý, một điểm xuất phát để nhà thơ thể hiện khát vọng về với nhân dân đất nước được sống lại với những kỉ niệm sâu nặng; nghĩa tình với nhân dân trong những năm kháng chiến gian khổ đồng thời cũng tìm về nơi ngọn nguồn của hồn thơ. Như, vậy là từ một vấn đề mang tính thời sự, bài thơ đã mở ra những luồng suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống, về nghệ thuật.

Bài thơ lúc đầu có tên “Con tàu Tây Bắc” nhưng về sau đó thì tác giả đã đổi thành tên “Tiếng hát con tàu” – một nhan đề thực sự có tính khát quát cao hơn và mang nhiều ý nghĩa sắc thái hơn.

Nhan đề của bài thơ dường như đã mang ý nghĩa như một biểu tượng bởi vì trong thực tế chưa hề có đường tàu bay con tàu nào lên Tây Bắc. Do đó, thi phẩm này, “con tàu” chính là hình ảnh tượng trưng cho những cuộc lên đường, cho khát vọng đi xa, vượt ra khỏi những cuộc sống chật hẹp, quẩn quanh và tù túng của cái tôi cá nhân để đến với cuộc đời rộng lớn, đến với nhân dân và cũng là đến với những mơ ước, những ngọn nguồn cảm hứng nghệ thuật tinh tế nữa. Và bằng với biện pháp nhân hóa, “Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên dường như đã muốn biểu hiện niềm vui sướng mê say rạo rực của lòng mình trên con đường đi tới những miền đất dường như vẫn có sức như đang vẫy gọi hay nói một cách khác, tình cảm gắn bó với Tây Bắc, với đất nước, và dễ nhận thấy Chế Lan Viên muốn hóa thân thành con tàu tâm tưởng để đến nhân dân, đất nước.

Có thể nói rằng hình ảnh “con tàu” ở đây mang tính biểu tượng, chính bởi vậy trong thực tế chưa hề có đường con tàu và con tàu nào đi lên Tây Bắc. Như vậy, thì hình ảnh “con tàu” ở đây là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng lên đường đến với Tây Bắc, đến với mọi miền xa xôi khác của đất nước.

Nói “Tiếng hát con tàu” nhưng thực ra đó còn  là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ. Nói một cách khác, Chế Lan Viên như đã muốn hóa thân thành một con tàu để hăm hở trên hành trình đến với nhân dân, đất nước.

Thi phẩm “Tiếng hát con tàu” đã có được một bố cục theo trình tự diễn biến tâm trạng. Hai khổ thơ đầu là sự trăn trở và lời mời gọi giục giã lên đường. Và cũng với chín khổ thơ tiếp theo thể hiện khát vọng về với nhân dân;gợi lại những kỉ niệm sâu nặng trong những năm kháng chiến gian khổ. Bốn khổ thơ cuối được xem là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê. Giọng điệu âm hưởng của bài thơ dường như cũng có sự biến đổi mạch theo cảm xúc, tâm trạng. Với đoạn đầu là lời giục giã lên đường với những câu hỏi hối thúc ngày càng tăng lên. Còn ở đoạn giữa bày tỏ trực tiếp tình cảm của nhà thơ với những hoài niệm như thiết tha, như sâu lắng, cảm động, đan xen với những hình ảnh lung linh của hồi tưởng, là những chiêm nghiệm đúc kết được thể hiện qua một giọng điệu thơ trầm bằng. Đoạn cuối còn chính là một âm hưởng của khúc hát lên đường, dồn dập, bay bỏng và lãng mạn.

Và với ngay sau lời đề từ là lời mời gọi lên đường: “Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng” tiếp đó là những câu hỏi hối thúc cứ như một ngày càng tăng tiến: “Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi… Tàu gọi anh đi sao anh chửa ra đi”. Có thể thấy rằng những lời ấy vang lên như là của con tàu, và cũng như của một người khác nói với nhà thơ. Nhưng xét về mặt nghệ thuật biểu hiện thì đó chỉ ra là cái tôi đang được khách quan hóa với cái tôi chủ quan. Hay nói khác đi đó cũng chỉ là một sự phân đôi giữa đề từ đối thoại – chủ thể đối thoại. Và dường như chính điều ấy đã góp phần biểu hiện sinh động ý tưởng của nhà thơ. Không thể có thơ hay nếu như mà nhà thơ chỉ biết giữ trời Hà Nội, chỉ sống với “đời anh nhỏ hẹp”, chỉ tìm cảm hứng “giữa lòng đóng khép” nghĩa là vẫn quanh quẫn trong thế giới tù túng của cái “tôi” không thoát ra được.

Tây Bắc – một nơi được biết đến là một mảnh đất xa xôi, nơi có những người dân sâu nặng nghĩa tình, nơi có những kỉ niệm gắn bó không thể nào quên trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đã đến với Tây Bắc thì còn có nghĩa đến với hiện thực cuộc sống, nơi nguồn cội của nghệ thuật nói chung và thơ nói riêng.

Giờ đây, dường như “Tiếng hát con tàu” đã thôi thúc  mời gọi lên Tây Bắc, đến với cuộc sống mà trước hết là sự trở về với cuộc chiến năm xưa tưởng đã lùi xa vào kỉ niệm. Làm sao mà có thể quên được những năm tháng ấy chứ, những năm tháng mà thời kì những văn nghệ sĩ tiền chiến như Chế Lan Viên có sự chuyển biến quan trọng trong cuộc đời nghệ thuật. Và chính từ thế giới của cái “tôi”cô đơn, họ đã đến với cuộc đời rộng lớn của nhân dân, của dân tộc và Cách mạng, của kháng chiến có ý nghĩa như đã soi rọi, ngời sáng đường đời, đường thơ như thế. Cho nên Chế Lan Viên đã viết những lời thơ chân thành, chan chứa niềm mến thương sâu sắc:

“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường

Con đã đi nhưng con cần vượt nữa

Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”

Con lại gặp nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”.

Dường như cảm xúc được gặp lại nhân dân được Chế Lan Viên diển tả rất tha thiết, cảm động mà trước hết là ở cách xưng hô của nhà thơ  ở đây là “Con gặp lại nhân dân”. Ta có thể thấy đại từ nhân xưng “con” diễn tả một mối quan hệ tình cảm gắn bó ruột thịt, một tình cảm hết sức thiêng liêng và trong sáng. Hạnh phúc và những nỗi niềm biết ơn khi gặp lại nhân dân được Chế Lan Viên cũng như đã thể hiện bằng một loạt hình ảnh so sánh lấy từ thế giới tự nhiên. Có thể nói rằng cuộc gặp đó diễn ra giống như “nai về suối cũ” , “cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa” nghĩa là cuộc gặp gỡ đó diễn ra một cách tự nhiên và như một điều tất yếu, một qui luật không thể khác được. Có lẽ chính những niềm cảm xúc đó cũng được tác giả so sánh với những hình ảnh lấy từ cuộc sống con người:

“Như đứa trẻ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”.

Hai câu thơ này dường như cũng đã thể hiện được niềm hạnh phúc khi gặp lại nhân dân, khi là trở về cuộc sống cội nguồn của cuộc sống, và cả trong sự nuôi dưỡng chở che, đùm bọc, cưu mang và sự giúp đỡ ấy hết sức kịp thời, đúng lúc (đói lòng gặp sữa, chiếc nôi ngừng, cánh tay đưa).

Và suy cho cùng thì thực ra đến với kháng chiến cũng là để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của Trái tim: “Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương” – người mẹ vĩ đại ấy chính là nhân dân. Để diễn tả ý nghĩa sâu xa, niềm hạnh phúc, lớn lao khi được trở về với nhân dân. Tác giả Chế Lan Viên thật tinh tế khi ông đã dùng một loạt những so sánh, những hình ảnh ấy đều bình dị, lấy từ đời sống tự nhiên và con người. Chính vì thế lại như càng thêm gần gũi và gợi cảm. Về với nhân dân là về với những gì thân thuộc nhất của lòng mình, về với niềm vui và hạnh phúc từng khao khát mong chờ:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa”.

Khi được về với nhân dân cũng là về với ngọn nguồn thiết yếu của sự sống, về với sự giúp đỡ, che chở, đùm bọc, cưu mang:

“Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

Chế Lan Viên dường như cũng đã gợi lại những kỉ niệm về nghĩa tình thắm thiết của nhân dân trong kháng chiến. Ở đây, có thể dễ nhận thấy cách xưng hô của nhà thơ với những con người đại diện cho nhân dân, thật thân thiết, ấp áp tình cảm gia đình:

“Con nhớ em con

Con nhớ anh con

Con nhớ mế…?

Bằng  chính những chi tiết cụ thể mà quá đỗi chân thực, tác giả khắc họa những con người ấy với sự hi sinh thầm lặng với tình thương và sự che chở đùm bọc thật trọn vẹn, rộng lớn. Đó không phải xa là mà là người anh du kích không nghĩ đến cái chết đang đến gần, mà tất cả tâm tư tình cảm đều hướng về đồng đội:

“Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn

Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách

Đêm cuối cùng anh cởi lại cho em”.

Là một em bé liên lạc nhỏ tuổi hưng gan dạ tận tụy làm nhiệm cụ đưa thư và dẫn đường cho cán bộ: “Rừng thưa em băng rừng rậm em chờ:

“Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc

Mười năm tròn chưa mất một phong thư”.

Là một bà mẹ dân tộc, luôn luôn chăm sóc người cán bộ đau yếu như chăm sóc đứa con ruột thịt của chính mình:

“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc

Năm con đau, mế thức một mùa dài

Con với mế không phải hòn máu cắt

Nhưng trọn đời con mãi nhớ ơn nuôi”.

Hay chỉ là cô gái dũng cảm vượt vòng vây của kẻ thù để vào rừng, tiếp tế cho bộ đội: “Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng:

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bửa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.

Đáng chú ý hơn là hình ảnh những con người ấy lại như được nhà thơ khắc họa trong những bối cảnh thời gian gợi rõ sự thử thách, sự hi sinh cao cả như:

“Đêm cuối cùng…

Mười năm tròn…

Nhìn chung những câu nói về tình nghĩa nhân dân của Chế Lan Viên cũng như đã biểu hiện niềm biết ơn sâu sắc, sự gắn bó chân thành và những xúc động thấm thía.

Có lẽ chính ình ảnh nhân dân trong bài “Việt Bắc” – Tố Hữu được miêu tả đó là những con người nghèo khổ, cuộc sống còn quá nhiều những khó khăn vất vả gian nan nhưng một lòng gắn bó, thủy chung son sắt với Cách mạng. Qua những câu thơ đặc sắc của Tố Hữu thì dường như hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trước hết đó là những con người cần cù lao động, chất phác, bằng những công việc nhỏ bé, thầm lặng, họ đã đóng góp lớn lao cho Cách mạng, cho cuộc kháng chiến. Họ đã một lòng tin tưởng vào Đảng, vào Bác Hồ Chí Minh và sự thắng lợi của cuộc kháng chiến, lạc quan hướng về tương lai.

Tác giả như đã viết về nhân dân Việt Bắc với một tình cảm biết ơn sâu nặng, ca ngợi những phẩm chất cao đẹp, những đóng góp lớn lao của họ đối với Cách mạng và xót xa, nỗi niềm thương cảm với cuộc sống nhiều khó khăn của họ

Qua thi phẩm “Tiếng hát con tàu” nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã viết về những con người ở Tây Bắc với một tình cảm biết ơn chân thành sâu nặng. Tác giả dường như cũng đã bày tỏ niềm hạnh phúc lớn lao khi được trở lại gặp gỡ nhân dân. Qua những dòng hồi tưởng miên man, hoài niệm của nhà thơ, hình ảnh người dân Tây Bắc được tái hiện qua những con người đại diện, tiêu biểu cho nhân dân là những người bình dị là Bà mế, người anh du kích, chú bé liên lạc,… Nhân dân Tây Bắc dường như đã được nhắc đến với những đực tính, phẩm chất tốt đẹp đó là trong nghèo khổ nhưng hết sức tình nghĩa, tận tụy một lòng gắn bó với Cách mạng,…

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn

Anh nhớ em như đông nhớ rét

Tình yêu ta như cách kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”.

Ở trong những câu thơ mở đầu, thì dường như Chế Lan Viên đã sử dụng hai từ “nhớ” như muốn nhấn mạnh, khắc sâu tình cảm gắn bó, nhớ thương của mình đối với Tây Bắc. Đây có thể chính là nỗi nhớ chung, bởi nhà thơ không hề nói tới một bản làng hay một con đèo cụ thể nào. Thế nhưng nỗi nhớ ấy không hề chung chung vì qua hình ảnh “bản sương giăng – đèo mây phủ” người đọc vẫn nhận ra cảnh sắc thiên nhiên của chốn rừng núi Tây Bắc. Đặc biệt hơn hết là nghệ thuật tiểu đối đã được nhà thơ sử dụng thành công với:nhớ bản – nhớ đèo; sương giăng – mây phủ.

Câu thơ thứ hai đó chính là sự khái quát đúc kết: “nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương”. Nói như vậy bởi đâu đó như đã chỉ miền đất này mà dường như mọi miền quê của đất nước, nơi Chế Lan Viên ghé qua đều để lại cho nhà thơ bao tình cảm yêu thương của nhà thơ với Tây Bắc, với mọi miền quê khác của đất nước.

Hai câu thơ sau đó còn là một sự khái quát đúc kết mang đậm chất triết lí của Chế Lan Viên. Và đó là có những điều thật giản dị, tưởng như ai cũng có thể nói được, thế nhưng với Chế Lan Viên lại trở thành một phát hiện sâu sắc. Dường như ở đây có hai khái niệm cần được làm rõ đó là “ở đất” – nơi mà ta đã từng sống, đã từng ghé qua và đó chỉ là mảnh đất vô tư vô giác. Còn khi mà “đất đã hóa tâm hồn” thực ra là một cách nói nhân hóa nhằm diễn tả tình cảm gắn bó yêu thương, giữa người và đất. Vậy thì điều gì đã làm nên một sự chuyển hóa kì diệu khiến “đất ở” thành “đất đã hóa tâm hồn”? Đó không là gì khác, mà đó chính là tình cảm của nhà thơ, hay nói sâu xa hơn là tình yêu của nhà thơ đối với Tây Bắc. Có thể nói cái khoảng cách thời gian dài và không gian mênh mông giữa “khi ta ở” và “khi ta đi” mới tạo nên sự kết nối gắn bó nên những mối dây giằng buộc về mặt tình cảm. Đến khi chia tay thì dường như chúng ta cảm thấy lưu luyến nhớ thương như là để lại một phần tâm hồn ở đấy.

Song, có thể nói trong khổ thơ thư hai, mạch thơ có sự chuyển đổi: từ hồ hởi náo nức chuyển sang trầm lắng suy tư. Tình yêu cùng nỗi nhớ như đãđược nhà thơ Chế Lan Viên thể hiện qua một loạt những hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ: “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”.  Một nỗi nhớ dường như hết sức tự nhiên và nó diễn ra như một điều tất yếu, không thể khác được.

Trong câu thơ hai: “Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng” cho đến nay thì dường như vẫn có cách hiểu khác nhau. Nếu như ta cho rằng cánh kiến là một loài côn trùng thường sống trên cây chủ “hoa vàng” – như vậy, có thể nói hình ảnh thơ này muốn diễn tả một mối quan hệ gắn bó khăng khít không thể tách rời. Nhưng cũng có những ý kiến trái chiều đó là khẳng định loài tổ của con cánh kiến – mùa thu hoạch lại có màu sắc lấm tấm như hoa vàng – hình ảnh thơ nhằm diễn đạt một tình yêu đạt đến độ chín của nó và lấp lánh nhiều màu sắc.

Tình yêu dường như còn được nhà thơ Chế Lan Viên so sánh diễn tả qua hình ảnh “Như xuân đến chim rừng lông trở biếc”. Mùa xuân được biết đến là mùa sinh sản, cũng là mùa loài chim tìm đến với nhau để kết đôi làm tổ và mỗi khi mùa xuân đến, bộ lông của chim rừng có một màu sắc thật đẹp, thật hấp dẫn biết bao nhiêu. Đây là điều mà nhà thơ dường như đã muốn nói qua hình ảnh này: tình yêu nó còn có tác dụng làm bừng thức những gì còn tìm ẩn trong mỗi con người, mỗi sự vật.

Thực ra ba câu thơ trên kia cũng chỉ là những tiên đề để Chế Lan Viên đi tới một sự khẳng định ở câu kết “Tình yêu làm đất lạ hóa vê hương”. Như vậy, có thể nói tình yêu đã tạo nên biết bao điều kì diệu, nó không chỉ làm nên sự kết nối gắn bó, không chỉ đánh thực những gì tiềm ẩn mà nó còn tạo nên một sự chuyển hóa kì diệu khiến cho “đất lạ” – mảnh đất với chúng ta vốn xa lạ hay đó chỉ nơi “đất ở” bỗng trở thành “quê hương” – nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó với chúng ta bởi biết bao tình cảm thiêng liêng và sâu nặng biết nhường nào.

Và cũng như theo dòng hoài niệm, bốn mạch thơ dẫn đến những câu thơ mang tính khái quát triết lí rút ra từ những trải nghiệm của đời người:

“Nhớ bản sương giăng, đèo mây phủ

Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương”

Và có thể thấy hình ảnh “bản sương giăng – đèo mây phủ” là những hình ảnh đẹp, chân thực, thơ mộng và rất đắc trương trước khung cảnh núi rừng các bài thơ viết về rừng núi. Nhà thơ Chế Lan Viên thật tinh tế khi chỉ dùng một hình ảnh mà gợi lại được những miền đất xa xôi ẩn hiện trong sương mờ kia và như đó là mây núi, và cũng là trong sương khói của hoài niệm. “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ” – Câu thơ cũng như đã làm chúng ta nhớ đến bao nhiêu hình ảnh thân thiết của những bản làng và tình cảm đằm thắm của những con người chất phác giản dị. Câu thơ tiếp theo là một câu hoi tu từ. “Nơi nào qua lại chẳng yêu đương” – là câu hỏi nhưng thực ra lại đó lại như là một lời khẳng định của nhà thơ: đâu phải chỉ là vùng đất này mà là tất cả “nơi nào qua” đều để lại cho nhà thơ biết bao tình cảm yêu thương gắn bó với nhau.

 “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Hai câu thơ thật hay và cảm xúc, như đã chứa đựng sự phát hiện một qui luật của tình cảm của đời sống tâm hồn con người, chứa đựng tính triết lí sâu sắc về mối quan hệ giữa con người và cuộc sống đó là nếu như ta sống gắn bó hết mình thì mảnh đất đó dù xa lạ cũng trở nên thân thiết. Bởi vậy mà câu thơ tài tình “Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” là cách nói nghệ thuật về sự gắn bó giữa con người và cuộc sống.

Trong bài thơ đặc sắc “Tiếng hát con tàu” dường như đã có rất nhiều hình ảnh thực, cụ thể mà giàu tình cảm xúc (như “chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”, “bản sương giăng, đèo mây phủ”,…) và cũng có biết bao nhiêu hình ảnh gợi lên những liên tưởng độc đáo, mới lạ, tạo nên những khái quát mang tính triết lý rất tiêu biểu cho phong cách thơ Chế Lan Viên. Đó có thể nói là những hình ảnh đẹp, những liên tưởng phong phú mạnh mẽ bất ngờ làm cho thơ có vẻ đẹp tinh tế, sâu sắc mà rực rỡ:

“Anh bỗng nhớ em như đông nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”

Đây cũng chính là một qui luật của tình yêu và cũng là qui luật của đời sống tình cảm. Ở khổ thơ này, tác giả đã khéo léo thể hiện một nỗi nhớ có tình cảm riêng tư “anh nhớ em”, nhưng cũng có thể là anh nhớ Tây Bắc.

Tiếng gọi ấy như càng lớn hơn, như càng thôi thúc cả hồn thơ, nó thực sự trở về ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo. Chính ở đây, Chế Lan Viên đã có những hình ảnh lấp lánh ánh sáng của trí tuệ, nhưng chủ yếu lại là những hình ảnh mang tính biểu tượng ẩn dụ. Đặc biệt, đó là khúc hát lên đường ở cuối bài thơ có một âm hưởng sôi nổi, lôi cuốn bởi sự có mặt của một biện pháp nghệ thuật đặc sắc đó là các móc xích hay vắt dòng, nghĩa là một hình ảnh một từ ngữ của câu thơ trên được nhắc lại và mở rộng trong câu thơ tiếp theo. Điều đó dường như đã làm cho các câu thơ trở nên liền mạch, dồn dập, trùng trùng, điệp điệp:

“Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao

Nhựa nóng mười năm nhân dân đổ máu

Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ

Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa

Nay trở về, ta lấy lại vàng ta”

Tiếng gọi lên đường – tiếng gọi của đời sống khách quan (nhân dân, đất nước), hay đó còn là tiếng gọi của chính tâm hồn nhà thơ hay là tiếng gọi chủ quan.

Bài viết gợi ý: