Trong cuộc đời con người, có lẽ tuổi thơ được xem là một quãng thời gian trong sáng nhất, đẹp nhất. Và chúng ta đã từng biết có những tuổi thơ êm đềm, cũng có những tuổi thơ dữ dội nhưng dù thế nào, khi không thể trở lại, mỗi chúng ta vẫn có những phút giây hoài niệm về tuổi thơ một cách đầy tiếc nuối. Xuân Quỳnh thì như đã thương ổ trứng gà của bà, Tế Hanh thì lại như nhớ con sông quê hương, Bằng Việt trở lại bếp lửa yêu thương… và Nguyễn Duy mải miết khi tìm về một “Đò Lèn” thuở nghe cổ tích.
Cùng với thi phẩm “Tre Việt Nam”, “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, “Ánh trăng”… “Đò Lèn” là bài thơ được nhiều bạn đọc yêu thích bởi những xúc cảm yêu thương chân thành mà người viết đã phổ một cách tự nhiên trong đó. Bài thơ gồm sáu khổ. Hai khổ thơ đầu chính là những kí ức về tuổi thơ với những trò chơi ngày nhỏ. Hai khổ tiếp theo còn được biết đến là nhận thức và cảm xúc của nhân vật trữ tình về những hi sinh thầm lặng của bà ngoại. Khổ thơ thứ năm dường như là kí ức về một những ngày bom Mỹ đánh phá tan hoang nhà cửa, chùa chiền. Và có thể nói với khổ cuối cùng là tâm trạng bùi ngùi của nhân vật tôi khi bà ngoại không còn nữa. Xuyên suốt tác phẩmnày đó chính là tình yêu sâu nặng người cháu dành cho bà ngoại. Bài thơ dường như đã bắt đầu bằng dòng hoài niệm, bằng những hồi ức về thuở xa xăm:
Thuở nhỏ tôi ra Cống Na câu cá níu váy bà đi chợ Bình Lâm bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần ….mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Hai chữ “thuở nhỏ” mở đầubài thơ đặc sắc như được láy lại lần nữa ở khổ thứ hai không chỉ là dấu mốc thời gian mà như còn đong đầy nỗi ngậm ngùi. Có thể thấy chủ thể điểm nhìn trong bài thơ là nhân vật tôi – nhưng không phải là tôi của thuở nhỏ mà là tôi khi đã lớn khôn, trưởng thành. Đó cũng chính là lí do những kỉ niệm ùa về rất nhiều nhưng tất cả chỉ được gọi tên vội vã: “câu cá”, “níu váy bà đi chợ”, “bắt chim sẻ”, “ăn trộm nhãn”, “chơi đền Cây Thị” “xem lễ Đền Sòng”.
Dường như những trò chơi của cậu bé nông thồn được liệt kê với mức độ dày đặc. Ngần ấy trò cho phép chúng ta có thể hình dung và mường tượng ra về một chú nhóc tinh nghịch, hiếu động. Điều đáng nói ở đây đó chính là kỉ niệm của cậu không gắn với lũ bạn cùng tuổi mà luôn quấn quýt với bà ngoại. Bà ngoại tôi dường như cũng chỉ xuất hiện duy nhất trong hành động đến chợ Bình Lâm nhưng tưởng như bước chân bà luôn theo đỡ bao kỉ niệm của thằng cháu ngoại. Và trẻ con – nhất là những bé trai dường như vẫn còn thích tha thẩn nơi vườn cây, ao cá nhưng điểm đến của nhân vật tôi lại là những đền chùa, chợ búa nơi mà các bà cụ thường lui tới. Nguyễn Duy cũng như đã nhắc đến năm địa danh thì trong số đó có đến ba tên chùa, đền. Chùa Trần, đền Sòng, đền Cây Thị, người bà đến cũng chính là những nơi cậu bé theo đi và tất nhiên đó không phải để thành tâm lễ Phật như bà mà để khám phá bao điều kì thú ở đó. Và vì cũng có thể ngày bé, nhân vật tôi chỉ mải miết với những trò nghịch ngợm của mình, thậm chí sẽ bị bà ngoại quở trách vì các hành động nghịch ngợm con nhỏ như “bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật”, “ăn trộm nhãn chùa Trần”. Nhưng rồi dường như tất cả những gì trầm tích trong kí ức lại là “mùi huệ trắng quyện khói trầm” và “điệu hát văn” cùng bóng dáng cô đồng trong chùa. Giờ thì chúng ta cũng đã hiểu tại sao tác giả không dừng lại miêu tả cụ thể một trò chơi nào. Với một mùi hương thanh khiết, trầm tịch chốn thâm nghiêm và có cả những điệu hát cô đồng khó hiểu là tất cả những gì choán đầy nỗi nhớ nhân vật trữ tình. Dường như cứ phảng phất, thậm chí không cố tình được trẻ thơ lưu lại trong trí nhớ lại có sức bám đọng mãnh liệt nhất khi kí ức dội về. Căn nguyên là đâu? Có lẽ vì thấp thoáng trong khói hương thơm ngát và điệu hát văn thuở xưa là bóng dáng bà ngoại yêu dấu của nhân vật tôi chăng? Sang tới khổ thơ tiếp theo thì tứ thơ lúc này đã có sự biến đổi đột ngột. Nó dường như đã không còn là các trò tinh nghịch thuở thiếu thời nữa mà là nỗi yêu thương không thể nén kìm:
Tôi đầu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Ta tưởng như những dòng hoài niệm không dừng lại ở những trò chơi thuở nhỏ mà được tiếp nối bằng hình ảnh bà ngoại lam lũ, tảo tần. Và như “Tôi đâu biết” – không hẳn là lời sám hối nhưng đó là lời tự trách đầy tiếc nuối, xót xa của người cháu khi trưởng thành. Và dường như tất cả những gì khuất lấp trong tuổi thơ giờ đã được nhận thức sáng tỏ. Thì đó vẫn chỉ là thao tác liệt kê nhưng không phải là trò chơi thuở nhỏ mà là bao vất vả, “cơ cực” của bà. Thực ra những việc như mò cua, xúc tép, gánh chè…đều là những công việc quen thuộc của người phụ nữ nông thôn Việt Nam. Nếu ai đã đọc những câu thơ của nhà thơTrần Đăng Khoa, chắc sẽ thương lắm dáng bà, dáng mẹ giữa trưa tháng sáu:
Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy
Còn như nếu ai đã đọc Bèn kia sông Đuống của Hoàng cầm, sẽ thấy ở đó có sự đồng điệu giữa Hoàng Cầm và Nguyễn Duy trong hình ảnh thơ:
Mẹ già nua còm cỗi gánh hàng rong Dăm miếng cau khô Mấy lọ phẩm hồng Vài thép giấy đẫm hoen sương sớm
Có thể nói những “cơ cực” đó lẽ ra không nên có ở những người bà đã đi qua bao nhọc nhằn trong cuộc sống, và không nên có ở lứa tuổi lẽ ra phải được thảnh thơi, vui vầy bên con cháu. Thêm một lần nữa Nguyễn Duy đã lại cho các địa danh xuất hiện, nhưng đó không còn là những đền chùa linh thiêng. Ba Trọi, Đồng Quan, Quản Cháo, Đồng Giao là nơi in dấu chân bà ngoại tảo tần sớm hôm. Dường như không gian nối tiếp không gian, mở -rộng, kéo dài hành trình lam lũ của bà đồng thời khơi sâu thêm nỗi xa xót trong lòng cháu. Từ láy “thập thững” đựng lên trước mắt người đọc dáng đi không vững chãi, thậm chí siêu vẹo của người mắt kém đang phải mang gánh nặng trên vai. Cụm từ “những đèm lùm” vừa chỉ thời gian, vừa có giá trị mô tả không gian. Đêm là thời khắc muộn hơn tối. Cũng để chỉ cái lạnh nhưng Nguyễn Duy không viết “đêm lạnh”, “đêm rét” mà viết “đêm hàn”. Kết hợp từ khéo léo này mang lại hiệu quả nghệ thuật bất ngờ. Trong cái lạnh của đêm tối, ta còn cảm nhận được cả cái buốt giá của sương đêm. Có thể nói rằng những cơ cực của bóng dáng lầm lụi không được miêu tả chi tiết nhưng vẫn được gợi nên trong suy tưởng người đọc những xúc cảm khó tả. Đó chẳng phải là những hi sinh âm thầm sao?
Nhân vật trữ tình dường như trong lúc này cũng không dám tin vào những điều mình nhận ra, không dám tin vào những điều thuở bé thơ mình không cảm nhận được. Cảm thức về bà ngoại cùng bao kí ức sâu đậm về những vị Phật tiên đã khiến nhà thơ phân vân:
…“Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực Giữa bà tôi và tiên phật thánh thần Cái năm đỏi củ dong riềng luộc sượng Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm”
Có lẽ đây được xem là khổ thơ hay nhất trong bài. Hay bởi cách nói và xúc động bởi chiều sâu tình cảm. “Trong suốt là tính từ chỉ tính chất sự vật, hiện tượng được Nguyễn Duy đưa vào lời thơ thật tự nhiên và như đảm nhiệm chức năng của động từ tình thái. Thật khó để mà có thể gọi tên chính xác cảm xúc của nhân vật trữ tình. Chỉ có thể khẳng định một điều mà thôi đó là trạng thái này gần gũi với phút đốn ngộ của các bậc tu hành nhà Phật. Hình ảnh của người bà đã như được đặt trong thế đối sánh ngang hàng với tiên phật, thánh thần thể hiện được lòng ngưỡng mộ, tôn sùng của nhân vật tôi. Phải thực sự thấm thía cũng như thật trân trọng công ơn của bà, nhân vật trữ tình mới có được tình cảm sâu sắc, mãnh liệt đến vậy. Tình cảm đó được đặt trong thế đối lập giữa hai không gian đó là không gian trần tục và không gian tịnh độ.
Có thể thấy ở đây cảm giác đói bị át đi bởi hương huệ trắng và hương trầm thanh khiết. Lần thứ hai hương thơm đó xuất hiện trong bài thơ. Nhưng lần này, dường như nó không được cảm nhận bằng khứu giác mà bằng thính giác. Cái tinh tế của ý thơ chính là ở chỗ này đây. Nếu chỉ là “cứ thoang thoảng” hay “cứ ngửi” thì hương huệ trắng và hương trầm chỉ là thứ hương của hiện tại. Đấy là chưa kể về việc nếu như sử dụng từ “ngửi” sẽ làm mất đi ý vị tao nhã của hình ảnh thơ, của lời thơ. Phải là “nghe” thì mới thấy quá khứ vọng về, thì mới thấy sức ám ảnh của hương thơm quá khứ. Có thể nói rằng những cảm thức về bà luôn gắn với sự thanh nhã, nhân hậu, đức độ. Bà như thần tiên, bà như cổ tích và bà luôn bất tử trong tâm thức cháu.
Và với khổ thơ thứ tư là bản lề khép lại những kí ức thuở nhỏ và đến gần hơn với mất mát thực tế được gợi tả trong khổ thứ năm:
Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Len
Chiến tranh như gợi ra với những đau thương mất mát đã đi vào thơ ca và trở thành chủ đề xuyên suốt một thời đại. Mỗi người bước vào chiến tranh và đi ra với những mất mát riêng. Với nhà thơ Nguyễn Duy, đau thương nhất là sự tan hoang, đổ nát của những chùa chiền và ngôi nhà bà ngoại. Nhà thơ thật tinh tế khi đã lựa cách nói để kìm giữ những tổn thương tinh thần. Không khắc họa “kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang” như Hoàng Cầm, Nguyễn Duy chỉ nhẹ nhàng kể: “nhà bà tôi bay mất”, “đến Sòng bay”, “bay tuốt cả chùa chiền”. “Bay” thực chất là tan, là đổ nát đấy chứ. Nhưng “bay” cũng là gắn với cảm thức tiên Phật. Nơi bình yên không còn yên bình nữa. Cái khốc liệt của chiến tranh in dấu ấn cả vào trong đời sống của thần tiên, huống gì con người? Có thể nói điểm kết của những kí ức là hình ảnh người bà “đi bán trứng ở ga Lèn mặc cho “bom Mỹ dội”, mặc cho “Thánh với Phật” đã phải rủ nhau đi. Vẫn là sự tảo tần để mưu sinh? Hay sẽ là bắt đầu cho một bất trắc không lường trước được, một mất mát khôn cùng? Ga Lèn chính là một điểm kết của câu thơ nhưng lại được chọn làm nhan đề cho bài thơ, điều đó chứng tỏ địa danh này gắn với sự kiện quan trọng. Phải chăng, chính tại nơi đây, những ngày được gắn bó cùng người bà kính yêu của nhà thơ – nhân vật trữ tình cũng hết?
Thời gian dường như cứ trôi bẵng đi, và để khi đã trưởng thành, đã nhận ra những hi sinh lớn lao của bà, đã ý thức được tình cảm, trách nhiệm của mình, cũng là lúc nhân vật trữ tình mất bà mãi mãi. Hai câu cuối tuy không hề đặc sắc về tứ thơ nhưng gây xúc động trong lòng người đọc. “Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”- lời thơ nghe đầy xót xa, nuối tiếc.
“Đò Lèn” là bài thơ hay tuy không mới về chủ đề nhưng vẫn có sức hấp dẫn đặc biệt nhờ cách diễn tả độc đáo, đó chính là nhờ sự phô bày những yêu thương chân thành của người viết. Có thể thấy rằng chính tình yêu thương bà luôn gắn với cảm thức chùa chiền, tiên phật nên mang màu sắc thanh khiết, sáng trong. Hàng loạt những địa danh của quê hương, đất nước như được gọi tên càng tô dậm sự chân thực trong cảm xúc. Đó còn là những nét riêng biệt và hết sức độc đáo để đọc “Đò Lèn”, chúng ta không nhầm với “Nhớ con sông quê hương” của Tế Hanh, “Bếp lửa” của Bằng Việt…