Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến là người có một phong cách riêng khó lẫn, thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính trí tuệ cũng như chính tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với nhiều suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,…Và có thể nói minh chứng rõ nhất cho phong cách này chính là bài Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
Có thể nhận ra được đặc điểm của thể văn tùy bút là hết sức lãng mạn, bay bổng, ngẫu hứng, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào. Dường như nhân vật chính của tùy bút là cái tôi của chính tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vì vậy,nếu như muốn hiểu bài văn, người đọc cần phải thấy được cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó chính là một cái tôi thật tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, say mê cái đẹp của cảnh vật và con người đất Huế.
Bài kí đã miêu tả được thật hay và sinh động vẻ đẹp của sông Hương, mở rộng ra là xứ Huế đẹp đẽ và thơ mộng, dường như lại ca ngợi lịch sử vẻ vang, bề dày văn hóa của cố đô Huế và chiểu sâu tâm hồn người Huế. Thông qua đó, tác giả như đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào về non sông gấm vóc quê hương mình, và về những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân tộc.
Bằng tài năng cũng như sự quan sát sắc sảo và năng lực cảm nhận tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như đã phản ánh sinh động và thú vị vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ rất lạ của sông Hương ở thượng nguồn và hạ lưu. Có thể thấy được hành trình của sông Hương từ thượng nguồn xuôi về biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế. Và chính điều này đã được tác giả miêu tả và thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: vừa mãnh liệt, sối nổi; vừa sâu lắng, thiết tha như lại vừa bình thản, trí tuệ.
Phần thứ nhất dường như rất giống như khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca về quê hương đất nước với những hình ảnh tuyệt đẹp, và đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Tác giả thật tài tình khi so sánh sông Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca của rừng già với tiết tấu hùng tráng có lúc thật dữ dội. Và có khi lại rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác. Có khi lại như đang cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ sắc thắm của hoa đỗ quyên rừng.
Tác giả dường như cũng đã phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn tựa như là một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” hiện lên với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng… Còn khi mà con sông Hương về đồng bằng, chính rừng già dường như đã chế ngự được những sức mạnh bản năng ở người con gái của mình. Từ đó, sông Hương đã rất nhanh chóng mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc địa, triệt để và khai thác tối đa đã mang lại cho sông Hương một linh hồn giống như con người vậy.
Và theo tác giả, nếu như chúng ta chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành Huế mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì người ta khó lòng mà có thể hiểu hết được bản chất của sông Hương và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó dường như đã không muốn bộc lộ. Tác giả thật đã kín đáo ngụ ý rằng nếu như muốn hiểu đầy đủ về một con người, một miền đất, rộng ra là một đất nước hay cả của một dân tộc thì phải biết rõ về quá khứ. Nếu không được thì chẳng bao giờ hiểu đúng về hiện tại và xác định đước tương lai.
Có thể nói chính đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thể hiện một nét rất lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn thật ấn tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người đọc, dường như cũng đã cảm nhận được sức hấp dẫn kì lạ toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Chính điều này như đã gợi ra những liên tưởng kì thú: Phải nhiều thế kỉ qua đi và như một người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại miên man kia. Nhưng ngay từ đầu, như vừa ra khỏi vùng núi, con sông Hương lúc này dường như đã chuyển dòng một cách liên tục. Nó như đã vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm mại và uyển chuyển biết bao. Con sông Hương như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó… Từ Tuần về đây, lúc này con sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, nó như đã vượt qua hẳn một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên xanh thẳm, và cũng chính vì thế mà từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách…
Có thể cảm nhận được như vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương mềm như tấm lụa khi chảy qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Và đó là có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều lại tím,thật như êm ả lúc lượn qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố. Dòng sông mang vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lăng tẩm, đền đài, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch… để rồi sau đó bừng sáng khi gập tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…
Phải là người con của đất Huế, và phải gắn bó yêu thương máu thịt với Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết được những câu văn đầy chất thơ và như chứa đựng sự rưng rưng cảm xúc như vậy. Trong đoạn văn này, dường như hai bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn. Có thể thấy được một sự phối hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh làm nổi bật vẻ đẹp của từng khúc sông Hương. Tác giả dường như đã sử dụng khéo léo, tài tình phép tu từ thường thấy trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ… đã như khiến đoạn văn giống như bài thơ trữ tình làm xao xuyến lòng người.
Lúc này con sông Hương như đã trở lên vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, đã như kéo một nét thẳng thực yên tâm theo một là hướng tây nam – đông bắc. Và chính ở phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nó trông nhỏ nhắn như nhũng vành trăng non. Giáp mặt, đối diện thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương như đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến. Và có thể nói chính những đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
Sông Hương thật như giống con sông Xen của Pa-ri, hay là sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét ở chỗ là nó đều chảy qua giữa lòng thành phố. Tác giả thật tài tình khi quan sát và cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ. Ở đoạn này, thì dường như tác giả cũng đã miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc độ văn hóa. Chính bằng con mắt của họa sĩ, tác giả thấy các nhánh của sông Hương tạo ra những đường nét uyển chuyển, mềm mại, làm nên vẻ đạp cổ kính của cố đô. Và ta như nhận thấy đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh Sông Đào mang nước sông Hương và như đã tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây dừa cổ thụ sừng sững kia tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương . Đó là những ánh lữa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được như vậy nữa.
Và nếu như xét từ góc độ âm nhạc, tác giả cảm nhận sông Hương giống như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình biết bao . “Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố,”… Đấy là chính là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác mà thôi, cảm nhận qua trăm nghìn ảnh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua xứ Huế bỗng như lại trở nên ngập ngừng như muốn đi muốn ở. Và như đã hao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
Có thể nói dường như các chi tiết về phong tục, lễ hội qua cảm quan nhạy bén của tác giả cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, thành thơ. Những câu văn được viết thật dài và với nhịp điệu du dương, êm ái làm cho tâm hồn người đọc tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Và dường như với tác giả thì sông Hương là cội nguồn của dòng nhạc cung đình Huế, là cảm xúc của Nguyễn Du để viết Truyện Kiều :
Hình như trong những khoảnh khắc chùng lại của cảnh sông nước ấy, thì con sông Hương như bỗng đã trở thành một người tài nữ như đang đánh đàn lúc đêm khuya. Có thể nói rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt rước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó khi giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du cũng như đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó,dường như những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Và tác giả như đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kĩ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời…”. Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.
Có thể nói chính với cái nhìn đắm say của một nghệ sĩ, tác giả thấy sông Hương khi rời thành phố giống như người tình dịu dàng và dường như chung thủy biết bao nhiêu. Chính vì điều này được diễn tả bằng một phát hiện thú vị: …Khi mà con sông rời khỏi kinh thành, sông Hương như đã chếch về hướng chính bắc, nó như ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói. Và như đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và bỗng nhiên sông Hương như lại sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ…
Cũng theo tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường thì những khúc quanh rẽ ngoặt thật bất ngờ đó có một cái gì rất lạ với tự nhiên và lại như rất giống con người, tựa như một nỗi vương vấn và dường như còn có cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu vậy… Còn khi ra biển, lúc này con sông Hương rất nhớ thành phố. Dường như cái nỗi nhớ không nguôi ấy như đã lắng đọng trong lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Và chính lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian. Và ấy chính là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Và vẫn là biện pháp so sánh kết hợp với nhân hóa ẩn dụ nhưng tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh đầy ấn tượng, đậm đà nét đẹp văn hóa xứ Huế.
Trong mối quan hệ qua lại với lịch sử dân tộc, thì con sông Hương lại như mang vẻ đẹp của một bản hùng ca chiến trận ghi lại những vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi hẻo lánh của đất nước các vua Hùng. Và ở thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) như trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi còn ghi. Có thể nói sông Hương chính là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt ta. Nó như thật vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám. Dường như nó cũng đã sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa. Con sông Hương lại như đã chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám vào năm 1945 và có không biết bao chiến công rung chuyển đất trời qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta. Con sông Hương còn được biết đến là nhân chứng lịch sử chứng kiến mùa xuân Mậu Thân (1968)-đó chính là thời điểm quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào huyệt Mĩ – ngụy và sông Hương dường như cũng đã chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế cổ xưa cho đến nay.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả hiện lên như đã gắn bó với từng con người xứ Huế, là dòng sông của thời gian ngân vang. Và còn là của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu và ngân vang lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, phải nói rằng điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ là “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước’.
Và phải chăng chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Sông Hương như đã gắnvới cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Dường như vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả:
Có một dòng thi ca bất tận về con sông Hương, vf con sông Hương không bao giờ lặp lại chính mình. Có thể nói chính những nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn ở đây chính là tình yêu say đắm đối với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu thật quá đỗi cảm xúc và trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương cùng một văn phong tao nhã và tinh tế.
Con sông Hương dường như đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử và thẩm mĩ của nó. Trong bài bút kí nổi tiếng ‘Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như đã khẳng định chân lí là “Vẻ đẹp huyền diệu của sông Hương là cội nguồn sinh ra vẻ đẹp của tâm hồn Huế”. Thật vậy, trong cảm nhận tinh tế và lãng mạn của tác giả, ta như thấy toàn bộ thủy trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiêm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Có thể nói những hiá trị nghệ thuật của đoạn văn tăng lên qua từng chi tiết và cuối cùng thì thăng hoa bằng câu chuyện về một nhà thơ già.
Chuyện kể đã có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng là “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Để rồi khi đến với phần thứ ba của bài kí, tác giả lại như đã lí giải tên dòng Hương Giang bằng huyền thoại đầy chất thơ:
Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sống cho làn nước thơm tho mãi mãi.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng ?
Giai thoại đó khiến cho dòng sông vốn đã nên thơ càng thêm thơ mộng : Hương là hương thơm của ngàn hoa đổ xuống làm cho làn nước thơm tho mãi mãi. Thơm tự ngàn năm, thơm đến ngày nay và mãi mãi về sau.
Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” dường như đã giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên họa, nên nhạc của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế tươi đẹp. Và đặc biệt là sông Hương , qua bài ký ta như thấy được bề dày lịch sử, văn hóa của Huế và chính với những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Phải có một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một vốn văn hóa phong phú về Huế cũng như trước hết với một tình cảm gắn bố thiết tha đối với Huế, tác giả mới có thể huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để diễn tả cho tường tận đượcvẻ đẹp và chất thơ của Huế. Đặc biệt hơn là đã thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương – một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến từ bao đời nay.