BỘ ĐỀ THI THPTQG CHUẨN CẤU TRÚC- ĐỀ 13
Môn: Ngữ Văn
Thời gian làm bài: 120 phút.
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi:
"Những lá thơm hái lúc về già
Hái những lá có hương tư tưởng
Khi cây đã hóa trầm trong ruột
Lá đủ rồi, phải đợi gì hoa?”
( Chế Lan Viên, dẫn theo https://www.thivien.net)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ và thể thơ của văn bản?
Câu 2. Tìm và nêu tác dụng của hai biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản?
Câu 3. Nêu nội dung tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong văn bản?
Câu 4. Anh/ Chị ấn tượng với hình ảnh thơ nào nhất? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Bằng đoạn văn khoảng 200 chữ, hãy bàn luận về vai trò của hình thức bên ngoài trong xã hội ngày nay.
Câu 2 (5 điểm)
Hãy phân tích những phát hiện sâu sắc mới mẻ trong quan niệm về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện qua đoạn thơ:
... "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa ” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...”
(Đất Nước - Trích Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)
HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
Câu 1 |
+ Văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. (Bởi vì trong văn bản sử dụng hình ảnh truyền cảm, cách nói ẩn dụ và hình thức thơ ca) + Thể thơ bảy tiếng/ thất ngôn. |
Câu 2 |
- Biện pháp tu từ: + Ẩn dụ phẩm chất: lá thơm, trầm, hoa + Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: hương tư tưởng + Câu hỏi tu từ: Lá đủ rồi, phải đợi gì hoa? + Đối: lá - hoa (câu thơ cuối) - Tác dụng: + Về hình thức: giúp lời thơ hình ảnh hơn, hàm súc và giàu sức gợi hơn, triết lí được thuyết phục hơn. + Về nội dung: góp phần thể hiện quan điểm của nhà thơ về tầm quan trọng của nội dung, của bản chất bên trong của mỗi sự vật, sự việc hay con người (trầm, hương tư tưởng) thay vì hình thức bên ngoài (hoa). |
Câu 3 |
Tư tưởng nhà thơ gửi gắm qua văn bản: cần biết nhìn nhận và trân quý giá trị thực sự, đó là những vẻ đẹp ẩn giấu bên trong; đừng bị vẻ đẹp của hình thức bên ngoài thu hút mà xao nhãng ý nghĩa quý giá nhất của mỗi sự vật, con người. Lối sống giản dị, thanh cao, tránh sự hào nhoáng, phô trương. |
Câu 4 |
- Về hình thức: 5-7 dòng, diễn đạt mạch lạc. - Về nội dung: Có thể chọn một trong những hình ảnh: + "Những lá thơm hái lúc về già ” => Hình thức không phải độ xanh tươi nhất nhưng lại là thời điểm tỏa hương thơm. + “Hái chiếc lá có hương tư tưởng" => Trân trọng những vẻ đẹp của trí tuệ, tinh thần. + “Cây hóa trầm trong ruột” => Trân trọng vẻ đẹp bên trong. + “Lá đủ rồi, phải đợi gì hoa? ” => Khẳng định nội dung bên trong quan trọng hơn hình thức bên ngoài. |
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1: (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
•Xác định đúng vấn đề nghị luận.
•Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
•Đảm bảo bố cục: mở - thân - kết, độ dài 200 chữ.
•Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đàm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Nêu vấn đề |
+ Vấn đề + Giải thích |
+ Vai trò của hình thức bề ngoài trong xã hội ngày nay. + Hình thức chỉ những vẻ đẹp bên ngoài như nhan sắc, vóc dáng, trang phục, tác phong của mỗi người |
Luận bàn |
Vai trò của hình thức |
+ Lúc nào hình thức cũng quan trọng, khiến cho cuộc sống thuận lợi hơn. + Trong xã hội hiện đại, khi tiêu chuẩn của cuộc sống ngày càng cao, nhu cầu về hình thức cũng tăng lên. + Vẻ đẹp bên ngoài được coi như một năng lực, bởi vậy, nó cũng cần được trau chuốt, quan tâm. |
Phản biện |
Hình thức không phải là tất cả. |
“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Nhưng nếu tốt cả gỗ và nước sơn thì chắc chắn giá trị sẽ tăng lên. |
Giải pháp |
+ Hành động + Nhận thức |
+ Quan tâm đúng mực đến hình thức, tránh xuề xòa. + Không quá đề cao vẻ bề ngoài, cho đó là giá trị tuyết đối. Hình thức chỉ có giá trị khi nó gắn liền với trí tuệ, tâm hồn. |
Liện hệ |
Bài học cho bản thân |
Trau dồi cả vẻ đẹp bên ngoài và bên trong. |
Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0,5 điểm
Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung: 4,5 điểm
I. ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ
- Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Đất Nước
- Dạng bài: Phân tích
-Yêu cầu: Phân tích, chứng minh 9 câu thơ đầu để làm rõ đó là những ý thơ thể hiện sự khám phá, phát hiện mới mẻ về hình tượng Đất Nước.
II. HỆ THỐNG Ý
1. Khái quát vài nét về tác giả - tác phẩm
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, ở huyện Phong Điền, xứ Huế cố đô. Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức cách mạng. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ. Phong cách thơ: giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
- Trường ca Mặt đường khát vọng viết năm 1971, tại chiến khu Trị - Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân tộc. Đoạn trích nằm ở phần đầu của văn bản Đất Nước được trích ở phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
- Văn bản Đất Nước thể hiện những cảm nhận, phát hiện của nhà thơ về đất nước trên nhiều bình diện (chiều dài của lịch sử, chiều rộng của địa lý, bề dày của văn hoá, phong tục...). Qua đó, nhà thơ khẳng định tư tưởng lớn: Đất Nước là của Nhân dân, và Nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước. Trong đó, 9 câu thơ đầu là những ý thơ thể hiện sự khám phá, phát hiện mới mẻ về hình tượng Đất Nước.
2.Phân tích
- Những suy ngẫm mới mẻ, sâu sắc về thời điểm ra đời của Đất Nước:
“Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa ” mẹ thường hay kể”
- Đó là một Đất Nước có từ ngàn xưa, từ rất lâu đời và còn đến hôm nay. Đất Nước rất xa từ “ngày xửa ngày xưa”, lại rất gần từ “bây giờ”. Đất Nước là một quá trình dài hình thành và phát triển, là một khái niệm tự nhiên ngay khi ra sinh ra và lớn lên.
- Đất Nước đã có từ lâu là cách nói ước chừng, bởi chẳng thể ai có thể nói rõ thời điểm ra đời Đất Nước, chỉ biết Đất Nước đã có từ xa xưa, chỉ biết Đất Nước ra đời trước tất cả chúng ta, khi ta sinh ra, ta đã sống trong cái nôi của Đất Nước.
- Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”, Câu thơ khiến ta nhớ đến hình ảnh của người bà thường hay kể chuyện cho con cháu nghe, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng tiên bước ra từ quả thị... Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc và gần gũi với con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết “ở hiền gặp lành”, biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung,... Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người.
Những suy ngẫm mới mẻ, sâu sắc về bắt nguồn và sự trưởng thành của Đất Nước:
"Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ “Miếng trầu bà ăn" là miếng trầu tình nghĩa trong Sự tích trầu cau khiến ta rung rung nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh “trầu cau” trở thành văn hoá, phong tục, trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung. Nhưng Đất Nước lại bắt nguồn từ miếng trầu, đó phải chăng là một khám phá khiến ta hiểu rằng, Đất Nước chỉ hình thành khi văn hoá xuất hiện, chỉ khi có văn hoá, Đất Nước mới có thể định nghĩa.
+ Hình ảnh cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí xông pha ra chiến trường đánh giặc, Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân. Như vậy, Đất Nước lớn lên trong đấu tranh, trong dựng nước va giữ nước. Và
phải qua gian lao, qua bão tố, Đất Nước mới trưởng thành.
- Những suy ngẫm mới mẻ, sâu sắc về văn hóa truyền thống của Đất Nước:
"Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..."
+ Đất Nước hiện diện ngay trong đời sống mỗi gia đình, từ những thói quen: bới tóc sau đầu của mẹ, đều là văn hóa, được truyền lại; được chỉ bảo từ xưa, đến đạo lý nghĩa tình thủy chung gừng cay muốimặn trong ca dao: Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
+ “Cái kèo cái cột thành tên: Ghi dấu sự hình thành và phát triển ngôn ngữ của dân tộc, do đó mà mỗi cái cột, kèo được đặt tên, nó thể hiện cả văn hóa và tâm hồn Việt ở trong đó.
+ Đất Nước còn là hạt gạo phải vất vả một nắng hai sương, gợi lên đặc điểm của nền văn minh lúa nước. Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn.
+ "Đất Nước có từ ngày đó câu thơ như lời tổng kết: Đất Nước là những gì bé nhỏ bình dị ta thấy, ta ăn hàng ngày, nuôi ta lớn lên, dạy ta học, che chở ta. Đất Nước được tạo ra từ những nhọc nhằn của thế hệ đi trước. Đất Nước không phải là cái gì xa vời, cao quý và khó tiếp nhận, Đất Nước hiện hữu thật gần, thật giản dị mà rất đỗi thiêng liêng.
3. Bình luận, đánh giá
- Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ... Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng... Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
- Chín câu thơ ngắn gọn nhưng cho ta những cảm nhận mới mẻ về hình tượng Đất Nước, giản dị vô cùng mà thấm thía vô cùng, một Đất Nước có từ ngày xửa ngày xưa, và cho đến hôm nay, vẫn luôn hiện diện, song hành cùng mỗi người dân Đất Việt. Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình
một lốí đi riêng.