Phân tích “BA CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA CÁC MÁC

(Phri-đrích Ăng-ghen)

 

1. Lý thuyết

1.1. Tác giả

Phri-đrích Ăng-ghen (1820 - 1895) là nhà triết học người Đức, bạn thân thiết của Mác và là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế cộng sản. Di sản lí luận của ông là một phần quan trọng trong lí luận của chủ nghĩa Mác.

Các Mác (1818 - 1883) là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học của Mác mở đường cho nhân loại bước vào kỉ nguyên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết của ông là vũ khí lí luận và hành động của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị tư sản.


Các Mác và Ăng-ghen

1.2. Tác phẩm

Văn bản “Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác” là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Mác, trong đó ông đã đánh giá cao cống hiến to lớn của Mác và biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản trước tổn thất to lớn không bù đắp được này. Tên bài do người biên soạn đặt.

1.3. Đọc hiểu văn bản

1.3.1. Tác giả thông báo về sự qua đời của Các Mác, đó một sự tổn thất lớn của nhân loại (từ đầu – “bậc vĩ nhân ấy gây ra”)


Tác giả đã đề cập đến thời gian địa điểm mà vĩ nhân Các Mác qua đời “Chiều ngày 14 tháng ba, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút”, thì nhà tư tưởng hiện đại của nhân loại đã “ngừng suy nghĩ”. Cách nói giảm nói tránh được tác giả sử dụng một cách khéo léo, nhẹ nhàng, điềm đạm. Mọi người đã bày tỏ sự bất ngờ, sốc trong im lặng, chỉ biết đứng đó, lặng nhìn ông “chúng tôi đã thấy ông ngủ thiếp đi thanh thản trên chiếc ghế bành – nhưng là giấc ngủ nghìn thu”. => Cách giới thiệu đầy ấn tượng của Ăng-ghen.

+ Tác giả đã ẩn dụ hình ảnh “giấc ngủ nghìn thu” nghĩa là Các Mác đã vĩnh viễn ra đi, sẽ không còn hiện diện trên cõi đời này nữa. Cũng là cách nói đầy tình cảm, thể hiện sự tiếc nuối, thương cảm và xót xa với một con người vĩ đại của nhân loại.

+ “Con người đó ra đi là một tổn thất không sao lường hết được”, tác giả đề cao, ca ngợi tài năng của Các Mác, là người không ai có thể thay thế bởi những đóng góp vô cùng to lớn của ông đối với khoa học lịch sử, đối với gia cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mĩ. Tất cả chúng ta rồi sẽ cảm thấy trống vắng do sự qua đời đột ngột của “bậc vĩ nhân” ấy. Cũng qua đó thể hiện tình cảm của Ăng-ghen đối với người bạn thân thiết Các Mác.

1.3.2. Ăng-ghen nêu ra những đóng góp to lớn và đánh giá những cống hiến vĩ đại của Các Mác (tiếp theo – “không làm gì thêm nữa”)

Các Mác là một nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng, là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại. Ông đã kế thừa và sáng tạo những đỉnh cao của tư tưởng, ông đã để lại cho nhân loại cống hiến vô cùng to lớn, ta thấy được những đóng góp quan trọng của Mác đối với lịch sử nhân loại.

- Cống hiến thứ nhất:

Trong tang lễ của Mác, Ăng-ghen đã đánh giá công lao vĩ đại của Mác: “Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”, bản chất của quy luật này là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nghĩa là vật chất (chủ nghĩa duy vật) quyết định ý thức (chủ nghĩa duy tâm). Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Mọi người cho rằng con người và xã hội sống tách biệt độc lập với nhau, không phụ thuộc mật thiết với nhau. Các Mác đã chỉ ra quy luật rằng không phải như vậy.

Lập luận của tác giả vô cùng chặt chẽ, ông đã đưa ra một so sánh ngang bằng “giống như”. Giống như Đác-uyn – nhà tự nhiên học và sinh vật học người Anh, là người sáng lập ra học thuyết Đác – Uyn về tiến hóa. Ông đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, thì Mác cũng tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người.

- Cống hiến thứ hai:

Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra”. => Ông đã tìm ra quy luật của giá trị thặng dư, nghĩa là giá trị lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị sức lao động, là lao động không công của người công nhân làm thuê. Ông đã mang tới một luồng ánh sáng mới, khi chưa có ai phát hiện ra, họ đều mò mẫn trong bóng tối thì Mác đã tìm ra được, khai sáng được những thắc mắc của các nhà khoa học, các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa.  => Đây là quy luật tiền đề quan trọng để xây dựng một xã hội công bằng tốt đẹp, không có sự bóc lột.

- Cống hiến thứ ba: là cống hiến to lớn quan trọng và vĩ đại nhất. Mác đã kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Khoa học với Mác là động lực lịch sử, động lực cách mạng, ông đã mang lại niềm vui cho chính mình khi những phát kiến của mình nhanh chóng có tác động cách mạng đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử. Mác là một nhà cách mạng, ông tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản và các thiết chế nhà nước, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại. Đấu tranh chính là hành động tự nhiên của Mác, ông đã hoạt động một cách say sưa, miệt mài, kiên cường, nhiệt huyết hết mình và có kết quả.

=> Ăng-ghen đã đề cập đến những cống hiến của Mác một cách có trật tự, sắp xếp và theo mức độ tăng tiến, “giống như” => “nhưng không chỉ có thế thôi” quan trọng của mỗi đóng góp ấy. Những đóng góp ấy đã đi vào lịch sử nhân loại, đánh dấu tên tuổi của nhà lãnh tụ kiệt xuất, để lại những dấu ấn vô cùng sâu đậm trong lòng mỗi người.

1.3.3. Tác giả bày tỏ sự tiếc thương, khẳng định sự bất tử của Các Mác và học thuyết Mác (phần còn lại)

Ăng-ghen hiểu được những khát khao, cố gắng hoàn thiện, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, hiểu được người bạn của mình đã rất say mê học hỏi không ngừng và đạt nhiều thành quả nên không thể tránh khỏi bị căm ghét, vu khống, đổ tội cho ông. “Các chính phủ - cả chuyên chế lẫn cộng hòa – đều trục xuất ông, bọn tư sản – cả bảo thủ lẫn dân chủ cực đoan – đều thi nhau vu khống và nguyền rủa ông”. Nhưng ông bỏ ngoài tai những lời thị phi thiên hạ, sống chân chính, đúng đắn.

Để rồi khi bậc vĩ nhân kì tài ấy mất đi, tất cả mọi người đã tôn kính, yêu mến và khóc thương ông, dù có rất nhiều kẻ thù địch nhưng tất cả đều công nhận tài năng của ông nên rất kính trọng và tiếc nuối trước sự ra đi này.

 

Tình bạn đáng trân trọng của Các Mác và Ăng-ghen

- Câu cuối cùng của tác phẩm, tác giả viết nên như lời khẳng định, công nhận những công lao mà Mác đã cống hiến cho xã hội loài người:

Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi!” Đây chính là minh chứng hùng hồn về sự bất tử của học thuyết Mác. Kết thúc bằng một dấu chấm than đầy cảm xúc, biểu cảm, đến đây tất cả xúc cảm tâm sự chỉ còn đọng lại trong sự lặng im và tưởng nhớ.

2. Luyện tập

Đề: Nêu cảm nghĩ về những đóng góp của Mác đối với nhân loại qua tác phẩm “Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác”

1. Mở bài:

Phri-đrích Ăng-ghen (1820 - 1895) là nhà triết học người Đức, bạn thân thiết của Mác và là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế cộng sản. Di sản lí luận của ông là một phần quan trọng trong lí luận của chủ nghĩa Mác. Văn bản “Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác” là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Mác, trong đó ông đã đánh giá cao cống hiến to lớn của Mác và biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản trước tổn thất to lớn không bù đắp được này.

2.Thân bài:

Các Mác (1818 - 1883) là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức gốc Do Thái, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Những hoạt động cách mạng và triết học của ông diễn ra trong thập niên 1840 - giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ phát triển và giai cấp vô sản công nghiệp ra đời và có những hoạt động cách mạng chống chế độ tư bản. Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học của Mác mở đường cho nhân loại bước vào kỉ nguyên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết của ông là vũ khí lí luận và hành động của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị tư sản.

Nhưng đáng tiếc và đau buồn thay khi vào lúc “Chiều ngày 14 tháng ba, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút”, thì nhà tư tưởng hiện đại của nhân loại đã “ngừng suy nghĩ”. Cách nói giảm nói tránh được tác giả sử dụng một cách khéo léo, nhẹ nhàng, điềm đạm. Mọi người đã bày tỏ sự bất ngờ, sốc trong im lặng, chỉ biết đứng đó, lặng nhìn ông “chúng tôi đã thấy ông ngủ thiếp đi thanh thản trên chiếc ghế bành – nhưng là giấc ngủ nghìn thu”. Tác giả đã ẩn dụ hình ảnh “giấc ngủ nghìn thu” nghĩa là Các Mác đã vĩnh viễn ra đi, sẽ không còn hiện diện trên cõi đời này nữa. Cũng là cách nói đầy tình cảm, thể hiện sự tiếc nuối, thương cảm và xót xa với một con người vĩ đại của nhân loại. “Con người đó ra đi là một tổn thất không sao lường hết được”, tác giả đề cao, ca ngợi tài năng của Các Mác, là người không ai có thể thay thế bởi những đóng góp vô cùng to lớn của ông đối với khoa học lịch sử, đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mĩ. Tất cả chúng ta rồi sẽ cảm thấy trống vắng do sự qua đời đột ngột của “bậc vĩ nhân” ấy. Cũng qua đó thể hiện tình cảm của Ăng-ghen đối với người bạn thân thiết Các Mác.

Để rồi trong tang lễ đầy nước mắt ấy, Ăng-ghen đã đọc điếu văn ngợi ca những đóng góp quý giá của Các Mác đối với nhân loại, không ai có thể phủ nhận và sẽ mãi nhớ về nó. Ăng-ghen đã nêu ra những cống hiến theo một trình tự hợp lí với mức độ tăng tiến. Đầu tiên, “Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”, bản chất của quy luật này là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nghĩa là vật chất quyết định ý thức. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Lập luận của tác giả vô cùng chặt chẽ, ông đã đưa ra một so sánh ngang bằng “giống như”. Giống như Đác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, thì Mác cũng tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Ăng-ghen đã đề cập đến những cống hiến của Mác một cách có trật tự, sắp xếp và theo mức độ tăng tiến, “giống như” rồi đến “nhưng không chỉ có thế thôi” quan trọng của mỗi đóng góp ấy. Đến thành tự thứ hai: “Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra”. Ông đã tìm ra quy luật của giá trị thặng dư, nghĩa là giá trị lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị sức lao động, là lao động không công của người công nhân làm thuê. Ông đã mang tới một luồng ánh sáng mới, khi chưa có ai phát hiện ra, họ đều mò mẫn trong bóng tối thì Mác đã tìm ra được, khai sáng được những thắc mắc của các nhà khoa học, các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa.  Đây là quy luật tiền đề quan trọng để xây dựng một xã hội công bằng tốt đẹp, không có sự bóc lột.

Và cống hiến thứ ba được nhắc đến là cống hiến to lớn quan trọng và vĩ đại nhất. Mác đã kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Khoa học với Mác là động lực lịch sử, động lực cách mạng, ông đã mang lại niềm vui cho chính mình khi những phát kiến của mình nhanh chóng có tác động cách mạng đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử. Mác là một nhà cách mạng, ông tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản và các thiết chế nhà nước, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại. Đấu tranh chính là hành động tự nhiên của Mác, ông đã hoạt động một cách say sưa, miệt mài, kiên cường, nhiệt huyết hết mình và có kết quả.

Tất cả những đóng góp ấy đã đi vào lịch sử nhân loại, đánh dấu tên tuổi của nhà lãnh tụ kiệt xuất, để lại những dấu ấn vô cùng sâu đậm trong lòng mỗi người.

Ông đã rất say mê học hỏi không ngừng và đạt nhiều thành quả nên không thể tránh khỏi bị căm ghét, vu khống, đổ tội cho ông. “Các chính phủ - cả chuyên chế lẫn cộng hòa – đều trục xuất ông, bọn tư sản – cả bảo thủ lẫn dân chủ cực đoan – đều thi nhau vu khống và nguyền rủa ông”. Nhưng ông bỏ ngoài tai những lời thị phi thiên hạ, sống chân chính, đúng đắn. Để rồi khi bậc vĩ nhân kì tài ấy mất đi, tất cả mọi người đã tôn kính, yêu mến và khóc thương ông, dù có rất nhiều kẻ thù địch nhưng tất cả đều công nhận tài năng của ông nên rất kính trọng và tiếc nuối trước sự ra đi này. Câu cuối cùng của tác phẩm, tác giả viết nên như lời khẳng định, công nhận những công lao mà Mác đã cống hiến cho xã hội loài người:

Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi!

Đây chính là minh chứng hùng hồn về sự bất tử của học thuyết Mác. Kết thúc bằng một dấu chấm than đầy cảm xúc, biểu cảm, đến đây tất cả xúc cảm tâm sự chỉ còn đọng lại trong sự lặng im và tưởng nhớ.

Các Mác là người thầy vĩ đại không chỉ của cách mạng Việt Nam nói riêng mà là của toàn thể giai cấp vô sản, toàn thể loài người tiến bộ nói chung.Trong điều kiện thời đại ngày nay đã có nhiều biến đổi sâu sắc, nhiều điểm khác nhau về con đường và xu thế phát triển của từng dân tộc cũng như nhân loại, song con đường mà Các Mác đã vạch ra cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mãi mãi là chân lý của loài người quan tiến bộ. Các Mác vẫn sống mãi, có giá trị và sức sống trường tồn. Tư tưởng, lý luận ấy của Các Mác và chủ nghĩa Mác là một kho tàng vô giá, mãi mãi cần phải khám phá, hiểu biết, vận dụng và phát triển.

3. Kết bài:

Bằng những lập luận chặt chẽ, kết hợp biện pháp so sánh ấn tượng, Ăng-ghen đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc những cống hiến vĩ đại của Mác đối với xã hội loài người. Đồng thời là sự tôn trọng, kính mến, ngợi ca ông.

 

Bài viết gợi ý: