Phân tích “CHIẾU CẦU HIỀN”

(Ngô Thì Nhậm)

 

1. Lí thuyết

1.1. Tác giả:


Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) hiệu là Hi Doãn, người làng Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (Hà Nội).

- Năm 1775, ông đỗ tiến sĩ, từng được chúa Trịnh giao cho giữ chức Đốc đồng trấn Kinh Bắc. Năm 1788, Ngô Thì Nhậm theo phong trào Tây Sơn, được thăng chức làm Binh bộ Thượng thư.

1.2. Tác phẩm:


Viết “Chiếu cầu hiền” là một truyền trống văn hóa chính trị phương Đông thời cổ trung đại.

Tác phẩm của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 – 1789, nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê – Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.

1.3. Đọc hiểu văn bản

1.3.1. Nêu lên vai trò quan trọng và sứ mệnh to lớn cao cả của kẻ hiền tài.

- Tác giả đã bắt đầu bài chiếu bằng những câu văn động viên, khuyến khích, cổ vũ tinh thần. Ca ngợi người hiền:

Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử.” Ông nêu lên vai trò quan trọng họ, nếu như ánh sáng của những người tài bị che khuất đi, bị giấu đi vẻ đẹp, có tài mà lại không ai biết, không được trọng dụng thì điều đó thật là một điều đáng tiếc. Và đó “không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”.

- Bài chiếu đưa ra những lập luận đầy khoan dung, nhân ái, thể hiện một thái độ cầu thị, mong mỏi thu hút người tài     phụng sự quốc gia.

1.3.2. Lời kêu gọi những người hiền tài một cách quyết tâm và chân thành, đồng thời là những hứa hẹn về chính sách trọng dụng nhân tài, người hiền của đất nước.

- Tác giả đã sử dụng các điển tích như Tứ Thư, Ngữ Kinh trong bài chiếu để tác động đến tâm lí của những bậc hiền tài, tăng sức thuyết phục trong lời kêu gọi.

- Trong phần tiếp theo, tác giả nêu lên cách ứng xử của các bậc hiền tài khi Tây Sơn ra Bắc Hà diệt họ Trịnh. => Điều này đi ngược lại đạo lí, trái với lẽ phải. Tác giả đã không nói trực tiếp mà dùng những hình ảnh tượng trưng để bày tỏ suy nghĩ của mình. => Cách nói giảm nói tránh thực sự tế nhị, lôi cuốn, đánh đúng vào tâm lí của các sĩ phu, buộc họ phải suy nghĩ về bổn phận và trách nhiệm đối với hoàn cảnh hiện tại của đất nước.

- Tác giả còn lên tiếng phê phán những người ra giúp vua nhưng lại không tận tâm với công việc: “cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết”. Sống hoài, sống phí mà không bộc lộ hết khả năng, không cống hiến hết mình.

- Tác giả nêu ra những khó khăn hiện tại và lí do cần phải có người tài giúp đỡ. Là buổi đầu của thời kì ổn định đất nước nên:

+ Kỉ cương triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên cương đang phải lo toan, vất vả.

+ Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, đức hóa của vua chưa kịp thấm nhuần khắ nơi.

- Ông đã đưa ra lí lẽ rằng: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn

- Để rồi tác giả thể hiện thái độ trọng dụng nhân tài của Quang Trung. Hiền tài chính là nguyên khí của quốc gia, điều này luôn đúng trong mọi thời đại. Một hình ảnh ấn tượng được nêu ra ở đây: “Một cây gỗ không chống nổi tòa nhà to” lại có sức tác động mạnh mẽ đến hiền tài.

 

- Trong thời điểm đất nước vừa mới trải qua khoảng thời gian loạn lạc, đô hộ, vô cùng khó khăn, khốn đốn. Khi đất nước rơi vào hoàn cảnh như vậy thì con người trở nên nhục chí, yếu lòng, chán nản, và vô cùng bi quan. Nhiều người không còn muốn cống hiến, hoạt động vì xã hội nay suy tàn, có tài nhưng không muốn ra làm quan vì sợ liên lụy. Triều đình lại mục nát, toàn những kẻ mưu cầu lợi danh, họ không muốn làm quan vì không muốn bị bọn quan lại đồng hóa, muốn bảo toàn nhân cách của một nhà nho chân chính. Bên cạnh đó, nhiều nhà nho lại có tư tưởng lệch lạc, không sáng suốt, bị che mắt đã không nhận ra đâu là chính nghĩa. Vậy nên, để cứu lấy tình thế khó khăn hiện tại, Quang Trung phải kêu gọi người tài, thuyết phục trí thức ở Bắc Hà hiểu được sâu sắc nhiệm vụ bảo vệ nước nhà và luyện tập ra sức phục vụ cho triều đại mới.

- Các tầng lớp nhân dân từ quan trên, đến dân thường từ quan nhỏ đến quan lớn, đều có thể dâng thư, có quyền bày tỏ công việc. Đó chính là chính sách lấy dân làm trọng, trước hết là vì dân, lấy dân làm gốc.

- Tác giả đưa ra cách tiến cử người tài rất thông thoáng, ông không gò bó, ép buộc theo một khuôn mẫu nào cả. Quan hoặc dân được quyền tự tiến cử => Sự công bằng.

1.3.3. Lời bố cáo gần xa, thúc giục những người hiền còn ẩn náu thì giờ đây hãy cùng nhau cố lên, lập công ghi tên tại triều đình.

- Tác giả nêu lên tiếng kêu gọi, phát động phong trào tuyển chọn nhân tài. Lời kêu gọi rất chân thành, từ tận trái tim, mong những ai có tài năng kiệt xuất ra phụng sự đất nước và sẽ được nước nhà trọng dụng, có chính sách đãi ngộ hợp lí.

Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung trong cuộc dựng xây đất nước sau thời phân li. Nhà vua đánh giá rất cao vai trò của hiền tài trong việc xây dựng đất nước. Cầu hiền trở thành một nhu cầu tất yếu, cần thiết của một triều đại mới ra đời, đó chính là truyền thống quý báu của dân tộc kế thừa qua nhiều đời. Hướng tới một đất nước tiến bộ, phát triển, ổn định.

Bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện cái tâm thương nước thương dân của vua Quang Trung, cống hiến cả cuộc đời vào sự nghiệp phục hưng dân tộc.

Tác giả đã truyền tải hết tấm lòng của một minh vương sáng suốt, nhiệt huyết với bá tánh của mình, vừa tài năng, vừa đức độ. Sẽ đem lại hòa bình, ấm no hạnh phúc cho muôn dân.

2. Luyện tập

Đề: Phân tích tác phẩm “Chiếu cầu hiền” để thấy được chủ trương kêu gọi nhân tài của vua Quang Trung.

- Giới thiệu tác giả Ngô Thị Nhậm và tác phẩm “Chiếu cầu hiền”

- Viết “Chiếu cầu hiền” là một truyền trống văn hóa chính trị phương Đông thời cổ trung đại.

- Tác phẩm của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 – 1789, nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê – Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.

Ngay từ những câu mở đầu bài chiếu, ta có thể cảm nhận được những lời lẽ vô cùng sâu sắc, khiến lòng người phải nể phục.

Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử.” Ông nêu lên vai trò quan trọng họ, nếu như ánh sáng của những người tài bị che khuất đi, bị giấu đi vẻ đẹp, có tài mà lại không ai biết, không được trọng dụng thì điều đó thật là một điều đang tiếc. Và đó “không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”.

Tác giả đã thay mặt cho nhà vua khẳng định với muôn ngàn dân chúng rằng, hiền tài là nguyên khí của quốc gia, là những tài sản quý giá giống như những ngôi sao trên trời, chiếu rọi soi sáng. Và một quy luật tất yêu rằng người tài là phải ra sức cống hiến giúp vua trị vì thiên hạ.

=> Phép so sánh được sử dụng đầy sáng tạo là tăng tính chặc chẽ, logic và sức thuyết phục cho bài chiếu này.

- Tác giả còn lên tiếng phê phán những người ra giúp vua nhưng lại không tận tâm với công việc: “cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết”. Sống hoài, sống phí mà không bộc lộ hết khả năng, không cống hiến hết mình.

- Tác giả nêu ra những khó khăn hiện tại và lí do cần phải có người tài giúp đỡ. Là buổi đầu của thời kì ổn định đất nước nên:

+ Kỉ cương triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên cương đang phải lo toan, vất vả.

+ Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, đức hóa của vua chưa kịp thấm nhuần khắp nơi.

- Ông đã đưa ra lí lẽ rằng: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn

=> Nếu không kêu gọi và thu phục hết những người tài năng thì thật là uổng phí.

- Vua Quang Trung sau khi dẹp tan bọn giặc thì ông trở về phục quốc, ông rất lo lắng quan tâm đến đời sống của quần chúng nhân dân. Ông hiểu hết được nổi khổ, cơ cực của dân. => Tấm lòng của một vị vua chân chính, anh minh, sáng suốt, luôn vì dân vì nước.

=> Trong sâu thẳm tấm lòng ấy, ông mong muốn, khát khao tìm được những người có tài năng kiệt xuất để giúp ông trấn hưng thiên hạ.

=> Sự tài năng và đức độ của một vị vua vừa có tài vừa có cái tâm trong sáng, có lí tưởng cao đẹp.

Bài viết gợi ý: