Bài phân tích “VỀ LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA”
(Trích “Đạo đức và luân lí Đông Tây” – Phan Châu Trinh)
1. Lý thuyết
1.1. Tác giả
-
Phan Châu Trinh (1872 - 1926), tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, quê ở
làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kì (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện
Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Năm 1901, ông đỗ làm quan, sau đó đi làm cách mạng.
Ông lợi dụng dân Pháp, cải cách đổi mới mọi mặt, làm cho dân giàu nước mạnh, tạo
nền độc lập quốc gia.
-
Năm 1908, ông bị bắt đày đi Côn Đảo. Sau khi được trả tự do, ông xin sang Pháp
tìm cách thúc đẩy cải cách chính trị ở Đông Dương nhưng không thành.
-
Năm 1925, ông về Sài Gòn, diễn thuyết được vài lần, sau đó ốm nặng rồi mất. Đám
tang của ông trở thành một phong trào vận động ái quốc rộng khắp cả nước.
-
Phan Châu Trinh luôn có ý thức dùng văn chương để làm cách mạng. Những áng văn
chính luận của ông đậm tính chất hùng biện, lập luận chặt chẽ, đanh thép. Những
bài thơ của ông dạt dào cảm xúc về đất nước, đồng bào, thấm nhuần tư tưởng yêu
nước và tinh thần dân chủ.
-
Các tác phẩm chính: “Đầu Pháp chính phủ
thư” (1906), “Tỉnh quốc hồn ca I, II”
(1907, 1922), “Tầy Hồ thi tập” (1904
- 1914), “Xăng-tê thi tập” (1914 -
1915), “Giai nhân kì ngộ diễn ca”
(1915), “Thất điều trần” (1922), …
1.2. Tác phẩm
“Về luân lí xã hội ở nước ta” là một đoạn
trích trong phần ba của bài “Đạo đức và luân lí Đông Tây” (gồm 5 phần chính, kể
cả nhập đề và kết luận), được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19 – 11 –
1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Tên bài
cũng như các số thứ tự trong đoạn trích do người biên soạn đặt.
1.3. Đọc hiểu văn bản
1.3.1. Tác giả khẳng định rằng ở nước ta
chưa có luân lí xã hội, mọi người chưa có ý niệm gì về luân lí xã hội
-
Không tương đồng với những ý niệm của các nhà diễn thuyết khác, theo quan điểm
của Phan Châu Trinh, luân lí phương Tây đã phát triển qua 3 giai đoạn, từ gia
đình, lên quốc gia, đến xã hội. Trong thời Trung cổ, ta chỉ có luân lí gia
đình, họ chỉ quan tâm nhau trong phạm vi hẹp là gia đình, gia đình nào biết gia
đình nấy; đến khi các quốc gia hình thành rộng khắp thì lúc đó luân lí quốc gia
mới xuất hiện, quốc gia nào thì lo xây dựng, phát triển quốc gia ấy, không có mối
liên hệ gì với nhau; chỉ sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất khép lại, những
tư tưởng, nhận thức mới về luân lí xã hội mới thực sự được đề cập đến, được
quan tâm, lên kế hoạch xây dựng và phát triển.
Phan Châu Trinh cho rằng: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì.”
-
Tác giả đã đưa ra ý kiến trong bài diễn thuyết của mình, khẳng định mạnh mẽ, trực
tiếp và đưa ra vấn đề một cách rõ ràng để mọi người thấy rõ tình hình nước ta
hiện tại, để không còn ai có những suy nghĩ ngộ nhận về luân lí xã hội ở nước
ta. Luân lí xã hội là luân lí của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của
con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, quốc gia mà còn đến cả thế giới.
Cũng theo Phan Châu Trinh, trong xã hội Việt Nam thời đó, cả luân lí gia đình lẫn
luân lí quốc gia đều đã suy đồi, hiêu tàn, dần biến mất. Đây là nguyên nhân
chính dẫn tới tình trạng mất nước, chính bên trong bộ máy nhà nước còn không
liên kết chặt chẽ thì thù trong giặc ngoài xâm chiếm càng dễ làm lung lay nước
nhà hơn. Riêng về luân lí xã hội là thứ luân lí đang được cổ vũ, khuyến khích
và phát triển rộng rãi ở các nước phương Tây thì người dân ta lại chưa có niệm
gì, “tuyệt nhiên không ai biết đến”,
vậy nên cũng dễ hiểu tại sao tác giả dùng từ “dốt nát” để chỉ về tầm vóc hiểu biết của dân ta về luân lí xã hội.
=>
Ở câu văn trên, tác giả đã chỉ ra một vấn đề thực tế rằng, chúng ta không thể
hiểu đơn giản rằng luân lí xã hội chẳng qua là tình cảm bạn bè giữa người này với
người khác được. Mà hơn hết chúng ta phải đặt ra vấn đề, đưa vào thực tế thời đại
mà suy xét khách quan để có cái nhìn đúng đắn.
1.3.2. So sánh luân lí xã hội ở nước ta với
châu Âu
-
Phan Châu Trinh đã đề cập ngay đến “Cái
xã hội chủ nghĩa” ở bên châu Âu, đó tức là chủ nghĩa xã hội, nói theo cú
pháp Hán ngữ. Ông hiểu khái niệm này không hoàn toàn giống với chúng ta ngày
nay. Ông dùng phép so sánh mở rộng để thấy được những khác biệt trong tư tưởng
tiếp nhận luân lí ở nước ta và châu Âu:
“Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh
hành như thế, đã phóng đại ra như thế, thế mà người bên ta thì điềm nhiên như
có kẻ ngủ không biết gì là gì” Ông thẳng thắng chỉ trích thái độ hờ hững
xem nhẹ luân lí của nước ta. Ông đưa ra hàng loạt các bằng chứng để chứng minh
cho lời mình nói. Đối với châu Âu hay bên Pháp, khi người có chức có quyền lấy
sức mạnh mà đè nén áp bức quyền lợi của nhân dân thì họ sẵn sàng “kêu nài, chống cự, thị oai, vận dụng kì cho
đến được công bình mới nghe”, họ phô bày sức mạnh về quyền làm người, quyền
được đối xử công bằng để đòi lại luân lí. Bởi vì họ có đoàn thể, họ ý thức sẵn
sàng làm việc chung, giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác. Họ
hình thành ý thức cá nhân ngay từ thuở sơ khai, họ có ăn có học, biết dùng suy
nghĩ và lí trí để hành động. Còn nhìn lại dân ta, một đất nước mà dân chúng bị
mù chữ, không được giáo dục, đầu tư học hành thì làm sao phát triển theo kịp
châu Âu được. Chính Bác cũng đã đề cập vấn đề này trong phong trào Bình dân học
vụ rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”. Bởi thế mà người dân mình “phải
ai tai nấy, ai chết mặc ai”, đi đường gặp chuyện bất bình cũng ngơ mắt đi
qua, nghĩ không liên quan đến mình nên không việc gì phải bận tâm, bao đồng.
- Ông thể hiện thái độ giận dữ, thẳng thắn chỉ ra những sai trái trong nội bộ nước ta. “Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích”, còn nữa “học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các triều vua” mà sinh ra tật xấu “giả dối nịnh hót”, bọn chúng xây dựng nền pháp luật, phá tan nát đoàn thể của quốc dân chỉ vì muốn giữ túi tham không đáy.
Xã hội Việt Nam thời phong kiến cũ
-
Ông chợt nhìn lại xã hội Việt Nam thời cổ sơ cũng không đến nỗi tàn tạ, thối
nát như bây giờ, dù sao cũng không trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì. Họ cũng đã từng
biết sống bên vực nhau, coi trọng giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn. Ông cha ta từng
nói: “Không ai bẻ đũa cả nắm” và “Nhiều tay làm nên bộp”. Họ đã có ý thức
về sức mạnh của đoàn thể, biết công ích và cũng biết góp gió thành bão, chụp
cây gây rừng.
-
Xã hội bây giờ đã chuyển xu thế chạy theo quan lại chức tước, dẫu cực khổ đến
đâu mà có kẻ “mang đai đội mũ, ngất ngưởng
ngồi trên” là những người vua quan nằm trên ngôi cao, hay còn có kẻ “áo rộng khăn đeo lúc nhúc lạy dưới” là bọn
tôi tớ nịnh bợ quan trên, thì tất cả cũng coi như không có gì. Từ việc trực tiếp
chỉ ra vấn đề sai trái đến tức giận và giờ Phan Châu Trinh như yếu lòng đi vì
thương xót cho quần chúng nhân dân lao khổ, không được đầu tư đi học để rồi tư
tưởng lệch lạc, trong đường đi cũng lầm lỗi:
“Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà
chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng
phú quý!”
- Cấu trúc câu trùng điệp, dồn dập, cùng các cặp từ đối lập nhau như phút trải lòng của tác giả. Ông đồng cảm, hiểu thấu được nổi khổ của dân, đau xót trước cảnh bi thảm của đất nước, thương dân bị đàn áp dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến cũ nát. Ông sẵn sàng đả kích bọn quan lại hám quyền, xấu xa, tham nhũng, vơ vét, rút tỉa dân. Chúng là “bọn Nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ” nhưng đúng hơn là “lũ ăn cướp có giấy phép” vậy.
(“Phản
chiêu hồn” – Nguyễn Du)
Đại
thi hào Nguyễn Du cũng đã lên án tố cáo bọn thống trị chỉ biết lo cho mình, bản
chất xấu xa bỉ ổi, mang trọng trách “lo
cho dân” mà lại đi hành hạ, đàn áp, để dân lầm tha, khốn đốn, xơ xác.
-
Phan Châu Trinh tiếp tục lên ác chỉ trích “những
kẻ ở vườn” suốt ngày nịnh bợ quan trên, “Lo cho quan, lót cho lại” chỉ để được bọn chúng vui lòng, đặng hống
hách với người khác. Chúng có chung một bản chất là luôn tự hạ mình để ca tụng,
khen ngợi bề trên một cách quá mức để lấy cảm tình và mưu cầu lợi ích bản thân.
Nhưng lạ thay, lại không ai khen chê, khinh bỉ. Thật là một xã hội đã thối nát
đến cực độ. “Thương ôi!”, tác giả thốt
lên lời nói thương cảm nhưng có phần bất lực, không thể chấp nhận sự thật này,
không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả.
=>
Cuối cùng, ông đưa ra kết luận: “Ôi! Một
dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội
chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế”.
1.3.3. Chủ trương truyền bá xã hội chủ
nghĩa cho con người Việt Nam
-
Mục đích của bài diễn thuyết “Về luân lí
xã hội ở nước ta” là tác giả muốn thay đổi tư tưởng đã cũ của nhân dân,
khôi phục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của dân ta đối với quê hương đất
nước. Tác giả lên tiếng kêu gọi:
“Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự
do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể
thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này”.
-
Với Phan Châu Trinh, chủ nghĩa xã hội hay luân lí xã hội là nghĩa vụ trong quan
hệ cộng đồng xã hội giữa đồng bào với nhau và giữa nhân dân đối với đất nước.
Chúng ta cần coi trọng đoàn thể, ý thức về sự đoàn kết để xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc chống chọi trước mọi khó khăn thử thách.
=>
Đoạn trích trên đã toát lên dũng khí của một người yêu nước, dám lên tiếng vạch
trần thực trạng đen tối u ám của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ,
hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước. Tác giả đã kết hợp hài hòa giữa yếu
tố chính luận và biểu cảm tạo nên nét độc đáo, lôi cuốn người đọc. Ngôn từ rõ
ràng, lập luận chặt chẽ, lúc từ tốn, mềm mỏng, lúc kiên quyết, đanh thép, vừa mạnh
mẽ vừa nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục.
2. Luyện tập
Đề 1: Cảm nhận về tấm lòng của Phan Châu
Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”
1. Mở bài:
“Về luân lí xã hội ở nước ta” là một đoạn
trích trong phần ba của bài “Đạo đức và luân lí Đông Tây” là một trong những
tác phẩm tâm huyết Phan Châu Trinh, được ông diễn thuyết vào
đêm 19 – 11 – 1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn. Qua đoạn trích ta có thể cảm
nhận được tấm lòng của một nhà văn luôn có ý thức dùng văn chương để làm cách mạng.
Những áng văn chính luận của ông đậm tính chất hùng biện, lập luận chặt chẽ,
đanh thép. Những bài thơ của ông dạt dào cảm xúc về đất nước, đồng bào, thấm
nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ.
2. Thân bài:
Phan
Châu Trinh cho rằng: “Xã hội luân lí thật
trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người
mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí
được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì.”
Tác
giả đã đưa ra ý kiến trong bài diễn thuyết của mình, khẳng định mạnh mẽ, trực
tiếp và đưa ra vấn đề một cách rõ ràng để mọi người thấy rõ tình hình nước ta
hiện tại, để không còn ai có những suy nghĩ ngộ nhận về luân lí xã hội ở nước
ta. Luân lí xã hội là luân lí của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của
con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, quốc gia mà còn đến cả thế giới.
Cũng theo Phan Châu Trinh, trong xã hội Việt Nam thời đó, cả luân lí gia đình lẫn
luân lí quốc gia đều đã suy đồi, hiêu tàn, dần biến mất. Đây là nguyên nhân
chính dẫn tới tình trạng mất nước, chính bên trong bộ máy nhà nước còn không
liên kết chặt chẽ thì thù trong giặc ngoài xâm chiếm càng dễ làm lung lay nước
nhà hơn. Riêng về luân lí xã hội là thứ luân lí đang được cổ vũ, khuyến khích
và phát triển rộng rãi ở các nước phương Tây thì người dân ta lại chưa có niệm
gì, “tuyệt nhiên không ai biết đến”,
vậy nên cũng dể hiểu tại sao tác giả dùng từ “dốt nát” để chỉ về tầm vóc hiểu biết của dân ta về luân lí xã hội. Ở
câu văn trên, tác giả đã chỉ ra một vấn đề thực tế rằng, chúng ta không thể hiểu
đơn giản rằng luân lí xã hội chẳng qua là tình cảm bạn bè giữa người này với
người khác được. Mà hơn hết chúng ta phải đặt ra vấn đề, đưa vào thực tế thời đại
mà suy xét khách quan để có cái nhìn đúng đắn.
Để
thấy được những đối lập, khó khăn mà thua thiệt khi nước ta chưa có luân lí xã
hội, Phan Châu Trinh đã đề cập ngay đến “Cái
xã hội chủ nghĩa” ở bên châu Âu để so sánh, để có cái nhìn thực tế hơn giữa
nước ta và châu Âu, đó tức là chủ nghĩa xã hội, nói theo cú pháp Hán ngữ. Ông
hiểu khái niệm này không hoàn toàn giống với chúng ta ngày nay. Ông dùng phép
so sánh mở rộng để thấy được những khác biệt trong tư tưởng tiếp nhận luân lí ở
nước ta và châu Âu: “Cái xã hội chủ nghĩa
bên Âu châu rất thịnh hành như thế, đã phóng đại ra như thế, thế mà người bên
ta thì điềm nhiên như có kẻ ngủ không biết gì là gì” Ông thẳng thắng chỉ
trích thái độ hờ hững xem nhẹ luân lí của nước ta. Ông đưa ra hàng loạt các bằng
chứng để chứng minh cho lời mình nói. Đối với châu Âu hay bên Pháp, khi người
có chức có quyền lấy sức mạnh mà đè nén áp bức quyền lợi của nhân dân thì họ sẵn
sàng “kêu nài, chống cự, thị oai, vận dụng
kì cho đến được công bình mới nghe”, họ phô bày sức mạnh về quyền làm người,
quyền được đối xử công bằng để đòi lại luân lí. Bởi vì họ có đoàn thể, họ ý thức
sẵn sàng làm việc chung, giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người
khác. Họ hình thành ý thức cá nhân ngay từ thuở sơ khai, họ có ăn có học, biết
dùng suy nghĩ và lí trí để hành động. Còn nhìn lại dân ta, một đất nước mà dân
chúng bị mù chữ, không được giáo dục, đầu tư học hành thì làm sao phát triển
theo kịp châu Âu được. Chính Bác cũng đã đề cập vấn đề này trong phong trào
Bình dân học vụ rằng: “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”. Bởi thế mà người dân mình “phải ai tai nấy, ai chết mặc ai”, đi đường gặp chuyện bất bình cũng
ngơ mắt đi qua, nghĩ không liên quan đến mình nên không việc gì phải bận tâm,
bao đồng. Ông thể hiện thái độ giận dữ, thẳng thắn chỉ ra những sai trái trong
nội bộ nước ta. “Dân không biết đoàn thể,
không trọng công ích”, còn nữa “học
trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các triều vua” mà
sinh ra tật xấu “giả dối nịnh hót”, bọn
chúng xây dựng nền pháp luật, phá tan nát đoàn thể của quốc dân chỉ vì muốn giữ
túi tham không đáy.
Ông
chợt nhìn lại xã hội Việt Nam thời cổ sơ cũng không đến nỗi tàn tạ, thối nát
như bây giờ, dù sao cũng không trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì. Họ cũng đã từng
biết sống bên vực nhau, coi trọng giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn. Ông cha ta từng
nói: “Không ai bẻ đũa cả nắm” và “Nhiều tay làm nên bộp”. Họ đã có ý thức
về sức mạnh của đoàn thể, biết công ích và cũng biết góp gió thành bão, chụp
cây gây rừng.
Xã
hội bây giờ đã chuyển xu thế chạy theo quan lại chức tước, dẫu cực khổ đến đâu
mà có kẻ “mang đai đội mũ, ngất ngưởng ngồi
trên” là những người vua quan nằm trên ngôi cao, hay còn có kẻ “áo rộng khăn đeo lúc nhúc lạy dưới” là bọn
tôi tớ nịnh bợ quan trên, thì tất cả cũng coi như không có gì. Từ việc trực tiếp
chỉ ra vấn đề sai trái đến tức giận và giờ Phan Châu Trinh như yếu lòng đi vì
thương xót cho quần chúng nhân dân lao khổ, không được đầu tư đi học để rồi tư
tưởng lệch lạc, trong đường đi cũng lầm lỗi: “Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân
càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý!” Cấu trúc câu
trùng điệp, dồn dập, cũng các cặp từ đối lập nhau như phút trải lòng của tác giả.
Ông đồng cảm, hiểu thấu được nổi khổ của dân, đau xót trước cảnh bi thảm của đất
nước, thương dân bị đàn áp dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến cũ
nát. Ông sẵn sàng đả kích bọn quan lại hám quyền, xấu xa, tham nhũng, vơ vét,
rút tỉa dân. Chúng là “bọn Nho học đã đỗ
được cái bằng cử nhân, tiến sĩ” nhưng đúng hơn là “lũ ăn cướp có giấy phép” vậy.
(“Phản
chiêu hồn” – Nguyễn Du)
Đại
thi hào Nguyễn Du cũng đã lên án tố cáo bọn thống trị chỉ biết lo cho mình, bản
chất xấu xa bỉ ổi, mang trọng trách “lo
cho dân” mà lại đi hành hạ, đàn áp, để dân lầm tha, khốn đốn, xơ xác.
Nguyễn
Đình Chiểu cũng đã bất bình mà nói lên lẽ ghét của mình trong “Lẽ ghét thương”
“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quý phân bang,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.”
Dường
như cái ghét ấy đã ngấm sâu trong tâm trí của tác giả, mức độ cũng vô cùng sâu
sắc, ghét
như khắc vào đá, găm vào tim và không thể phai mờ được.
Phan
Châu Trinh tiếp tục lên ác chỉ trích “những
kẻ ở vườn” suốt ngày nịnh bợ quan trên, “Lo cho quan, lót cho lại” chỉ để được bọn chúng vui lòng, đặng hống
hách với người khác. Chúng có chung một bản chất là luôn tự hạ mình để ca tụng,
khen ngợi bề trên một cách quá mức để lấy cảm tình và mưu cầu lợi ích bản thân.
Nhưng lạ thay, lại không ai khen chê, khinh bỉ. Thật là một xã hội đã thối nát
đến cực độ. “Thương ôi!”, tác giả thốt
lên lời nói thương cảm nhưng có phần bất lực, không thể chấp nhận sự thật này,
không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả. Cuối cùng, ông đưa ra kết luận:
“Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng
cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt
Nam ta không có là cũng vì thế”.
Mục
đích của bài diễn thuyết “Về luân lí xã hội
ở nước ta” là tác giả muốn thay đổi tư tưởng đã cũ của nhân dân, khôi phục
ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của dân ta đối với quê hương đất nước.
Tác giả lên tiếng kêu gọi:
“Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự
do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể
thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này”.
Với
Phan Châu Trinh, chủ nghĩa xã hội hay luân lí xã hội là nghĩa vụ trong quan hệ
cộng đồng xã hội giữa đồng bào với nhau và giữa nhân dân đối với đất nước.
Chúng ta cần coi trọng đoàn thể, ý thức về sự đoàn kết để xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc chống chọi trước mọi khó khăn thử thách.
Đoạn
trích trên đã toát lên dũng khí của một người yêu nước, dám lên tiếng vạch trần
thực trạng đen tối u ám của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng
về một ngày mai tươi sáng của đất nước. Tác giả đã kết hợp hài hòa giữa yếu tố
chính luận và biểu cảm tạo nên nét độc đáo, lôi cuốn người đọc. Ngôn từ rõ
ràng, lập luận chặt chẽ, lúc từ tốn, mềm mỏng, lúc kiên quyết, đanh thép, vừa mạnh
mẽ vừa nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục.
Tấm
lòng của một con người yêu nước thương dân đã được thể hiện sâu sắc qua đoạn trích
này, ghét cường bạo, yêu chính nghĩa, luôn hướng về nhân dân lao động. Bài diễn
thuyết này cũng chính là tiếng nói mạnh mẽ của Phan Châu Trinh muốn thay đổi số
phận đất nước. Với tầm nhìn xuyên lịch sử, thấu thời đại, ông nhận thấy những
trở ngại mà nước ta đang và sẽ gặp phải nên bày tỏ sự thấu hiểu, luôn hướng đất
nước đến một tương lai tươi sáng, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu.
3. Kết bài:
Ngợi
ca tấm lòng nhân nghĩa của một nhà Nho chân chính.