A.KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả
- Vích-to Huy-gô: (1802-1885) là một thiên tài nở rộ từ đầu thế kỉ XIX cho tới nay.
- Tuổi thơ phải trải qua những giằng xé vì giữa cha và mẹ có mâu thuẫn. Cùng đó ông phải chuyển quân theo cha từ nơi này đến nơi khác, đó được coi là những trải nghiệm không bao giờ phai.
- Sự nghiệp:
- Ông nói về thơ của mình: "Một tiếng vọng âm vang của thời đại" đây là một nhận định có thể dùng cho toàn bộ các sáng tác của ông.
- Ông là một người có những hoạt động xã hội và chính trị tác động mạnh mẽ tới những nhân vật và khuynh hướng tiến bộ của thời đại.
- Đóng góp: ông sáng tác trong nhiều lĩnh vực, một số tác phẩm tiêu biểu là Nhà thờ Đức bà Pa-ri (1831), Những người khốn khổ (1862), Chín mươi ba (1874),...
- Năm 1985, vào dịp 100 năm ngày mất của ông, thế giới đã làm lễ kỉ niệm Huy-gô - Danh nhân văn hóa của nhân loại.
2. Tác phẩm
- “Người cầm quyền khôi phục quy quyền” nằm ở cuối phần thứ nhất của bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ”, đây là bộ tiểu thuyết được biết đến nhiều nhất trong kho tàng sáng tác đồ sộ của ông. Phăng-tin, thị trưởng Ma-đơ-len (Giăng Van-giăng) rơi vào tay Gia-ve. Phăng-tin tắt thở khi biết sự thật về ông thị trưởng và con gái mình.
- Tóm tắt đoạn trích: Phăng tin bị Gia-ve bắt bỏ tù, may nhờ có Ma-đơ-len cứu giúp, rồi đưa vào bệnh xá. Trong lúc đang hết lòng cứu giúp Phăng Tin, thì Ma-đơ-len lại quyết định ra tòa tự thú để cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan. Bởi vậy, ông đến từ giã Phăng-tin và Gia-ve đã theo ông đến tận bệnh xá nơi Phăng- tin nằm để canh chừng và bắt ông. Khi Gia-ve đến, Phăng-tin cứ nghĩ hắn đến để bắt chị và tỏ ra vô cùng sợ hãi. Ma-đơ-len cầu xin Gia-ve cho ông ta ba ngày để tìm ra đứa con gái của Phăng-tin,nhưng hắn không đồng ý và liên tục buông lời chửi mắng sỉ nhục Ma-đơ-len và Phăng-tin khi chị đang ốm nặng. Gia-ve túm lấy cổ áo của Ma-đơ-le và nói ” không có thị trưởng nào cả, chỉ có một tên cướp một tên tù khổ sai….Khi nghe xong nhưng lời ấy Phăng-tin vô cùng sợ hãi và tắt thở. Giăng-van-giăng cậy tay Gia-ve ra khổi cổ áo, từ từ đi đến chỗ giường sắt cũ, lăm lăm cần một thanh giường trong tay. Gia-ve sợ hãi lùi ra phía cửa, hắn định gọi quân lính nhưng sợ Giăng-van-giăng chạy trốn nên hắn đành im lặng. Giăng-van-giăng đến chỗ Phăng-tin nói những lời cuối với chị rồi đứng dậy quay về phái Gia-ve và nói ” giờ thì tôi thuộc về anh”.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 80 sgk ngữ văn 11 tập 2
Phân tích nghệ thuật đối lập hai nhân vật Giăng Van-giăng và Gia-ve qua đối thoại, qua hành động. Nêu ý nghĩa của biện pháp này.
Bài làm:
- Trong lời đối thoại và hành động của hai nhân vật Giăng Van-giăng và Gia-ve có sự đối lập. Điều này làm nổi bật lên sự mâu thuẫn giữa ác và thiện, giữa một người tốt và một người xấu...
- Nhân vật Giăng Van-giăng:
- Khi Phăng-tin còn sống: Cử chỉ với chị Phăng-tin được miêu tả là nhẹ nhàng và điềm tĩnh, cố gỡ bàn tay của Gia-ve. Khi ông bị bắt cầu xin Gia-ve cho mình thời gian để đi tìm con cho chị Phăng-tin. Thể hiện là một con người điềm đạm, tử tế tuy rơi vào nghịch cảnh.
- Khi Phăng-tin chết: giật gãy trong chớp mắt chiếc giường sắt cũ nát, cầm lăm lăm thanh giường trong tay, nhìn Gia-ve trừng trừng. Tuy nhiên, ông lại đối với chị Phăng-tin hết sức nhẹ nhàng, sự đau buồn cùng cực, nhắm nhìn Phăng-tin không nhúc nhích, quỳ xuống, nhẹ nhàng nâng bàn tay chị Phăng-tin lên và đặt vào đó một nụ hôn.
- Nhân vật Gia-ve:
- Khi Phăng-tin còn sống: man rợ, điên cuồng, không còn là tiếng người nói mà là tiếng cầm thú gầm, hét to, túm cổ áo, gắt gỏng. Một con người man rợ, quát tháo ầm ĩ.
- Khi Phăng-tin đã chết: run sợ trước hành động của Giăng Van-giăng, lo lắng ông trốn mất. Tuy nhiên, hắn ta vẫn điên cuồng quát tháo, không quan tâm đến cái chết của Phăng-tin. Một con người không còn nhân tính.
Câu 2: trang 80 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Phân tích những hình ảnh so sánh và ẩn dụ:
- Ở Gia-ve, tác giả đã sử dụng một loạt chi tiết nhằm quy chiếu về một ẩn dụ. Ẩn dụ mà Huy-gô nhằm gợi lên từ hình ảnh Gia-ve là gì?
- Ở Giăng Van-giăng, ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy chiếu về ẩn dụ như ở Gia-ve. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, những chi tiết về Giăng Van-giăng có thể quy chiếu về hình ảnh của ai? (Căn cứ vào đoạn văn gồm những câu hỏi; đoạn nói về cảnh tượng mà "bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến", câu văn miêu tả gương mặt Phăng-tin kèm theo lời bình luận của tác giả)
Bài làm:
- Những so sánh và ẩn dụ về nhân vật Gia-ve:
- Bộ mặt gớm ghiếc,
- Đôi mắt ánh lên những tia độc ác, phóng vào tội nhân như cái móc sắt kéo giật vào bao kẻ khốn khổ,
- Cách xưng hô: Mày - tao, tao - con đĩ, đồ khỉ, lũ gái điếm
- Giọng điệu: “...Có cái gì man rợ và điên cuồng...”
- Hành động: “hét lên”, “nắm lấy cổ áo ông thị trưởng”, “giậm chân”, “túm lấy cổ áo và ca - vát của Giăng Van - giăng”
Tất cả những chi tiết ấy khiến nhân vật Gia-ve quy chiếu về hình ảnh ẩn dụ của một con thú dữ tợn, nham hiểm, độc ác, không có nhân tính.
- Với Giăng Van-giăng, tuy không sử dụng hệ thống hình ảnh so sánh quy chiếu về ẩn dụ như Gia-ve nhưng qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, ta có thế thấy:
- Để cứu Phăng-tin, một người vô tội, Giăng Van-giăng đã buộc phải thú tội
- Giăng Van-giăng lặng người ngồi ngắm nhìn Phăn-tin, chỉnh sửa lại đầu tóc, áo, vuốt mắt cho chị rồi cúi xuống thì thầm điều gì vào tai Phăng-tin
Ta có thể thấy Giăng Van-giăng là hiện thân của một con người vì tình thương, vì chính nghĩa dù có phải hi sinh bản thân mình.
Câu 3: trang 80 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Đoạn văn từ câu "Ông nói gì với chị?" đến câu "có thể là những sự thực cao cả" là phát ngôn của ai? Thuật ngữ văn học dùng đê chỉ tên loại ngôn ngữ này? Ở đây, trong câu chuyện kể, nó có tác dụng như thế nào?
Bài làm:
- Đoạn văn từ câu "Ông nói gì với chị?" đến câu "có thể là những sự thực cao cả" là phát ngôn của tác giả
- Thuật ngữ văn học dùng để chỉ tên loại ngôn ngữ này là trữ tình ngoại đề - một hình thức của ngôn từ tác giả: là ngôn từ của tác giả kiêm người trần thuật bị chệch ra ngoài việc miêu tả các sự kiện trong cốt truyện nhằm bình luận hoặc đánh giá về chúng, hoặc về những điều khác, không trực tiếp gắn với hành động của tác phẩm.
- Tác dụng của đoạn trữ tình ngoại đề trực tiếp đi vào thế giới tư tưởng, lý tưởng của tác giả, giúp cho việc xây dựng hình tượng tác giả như một người trò chuyện "tâm giao" với độc giả
Câu 4: trang 80 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Qua đoạn trích hãy nêu những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa.
Bài làm:
Những dấu hiệu của chủ nghĩa lãng mạn trong đoạn trích:
- Khi Giăng Van-giăng cúi đầu thì thầm bên tai Phăng-tin, bà xơ trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được thể hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết
- Giăng Van-giăng lấy hai tau nâng đầu Phăng-tin lên, đặt ngay nhắm giữa gối như một người mẹ sửa sang cho con. Ông thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải. Rồi ông vuốt mắt cho chị. Lúc ấy gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường
- Giăng Van-giăng nhẹ nhàng nâng nâng bàn tay Phăng-tin và đặt vào đấy một nụ hôn
Tất cả những chi tiết ấy đã hoàn tất bức tranh về Giăng Van-giăng, con người hiện thân cho tình thương và sự cao cả.
Luyện tập
Bài tập 1: trang 80 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Phân tích nghệ thuật khắc họa nhân vật Phăng-tin: Trong tình thế tuyệt vọng, ngôn ngữ và hành động
Bài làm:
Nghệ thuật khắc họa nhân vật Phăng-tin:
- Hành động:
- Lấy tay che mặt và kêu lên hãi hùng khi nhìn thấy Gia-ve;
- Ngạc nhiên đến hãi hùng khi thấy Gia-ve nắm cổ áo ông thị trưởng là Giang Van-giăng;
- Run lên bần bật khi biết tin Giăng Van-giăng chưa tìm được Cô-dét;
- Chống hai bàn tay và cánh tay cứng đơ vùng nhổm dậy, há miệng muốn nói, từ trong họng thốt ra tiếng rên, răng đánh vào nhau cầm cập
- Hoảng hốt giở tay lên, hai bàn tau cố sức mở ra tìm chỗ bám như người rơi xuống nước đang chới với
- Ngã vật xuống gối, đầu đập vào thành giường rồi nghoẹo xuống ngực, miệng há hốc, mắt mở to và lờ đờ.
- Ngôn ngữ: Liên tục kêu lên, nhắc đi nhắc lại với Giăng Van-giăng về việc tìm thấy đứa con Cô-dét của mình
Tất cả ngôn ngữ và hành động ấy khiên cho Phăng-tin hiện lên là một người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh. Chị đang sống trong sợ hãi vì sự xuất hiện của Gia-ve có thể sẽ đưa chị vào tù khi chưa tìm thấy đứa con duy nhất của mình. Khao khát lớn nhất trong cuộc đời người phụ nữ ấy là đứa con gái của mình bình yên và sống trong hạnh phúc. Có lẽ vì thế mà khi chết đi rồi, Giăng Van-giăng cúi đầu thì thầm vào tai chị lời hứa, chị mới mỉm cười, mãn nguyện và buông tay.
Bài tập 2: trang 80 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Vai trò của Phăng-tin trong diễn biến cốt truyện?
Bài làm:
Phăng-tin được miêu tả không nhiều trong đoạn trích, tuy nhiên nhân vật này đóng vai trò quan trọng trong diễn biến cốt truyện:
- Là nhân vật tạo ra những mâu thuẫn, đối lập giữa Giăng Van-giăng và Gia-ve, từ đó tạo điều kiện cho hai nhân vật này bộc lộ tính cách của mình.
- Làm rõ tình thương, lòng yêu thương con người và tấm lòng cao cả của Giăng Van-giăng. Đồng thời gửi gắm niềm tiếc thương, cảm thông của tác giả đối với những con người có số phận như Phăng-tin
Bài tập 3: trang 80 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Sự phân tuyến nhân vật ở đây có nét gì gần gũi với hệ thống nhân vật của văn học dân gian?
Bài làm:
Sự phân tuyến nhân vật ở đây có nét gần gũi với hệ thống nhân vật của văn học dân gian.
- Trong văn học dân gian, đặc biệt là trong truyện cổ tích, các nhân vật sẽ được phân làm hai tuyến rõ ràng là thiện - ác; tốt - xấu. Sự phân tuyến ấy được thể hiện qua các khắc họa đặc sắc để tạo ta sự đối lập tương phản gay gắt giữa cái xấu, cái ác với cái tốt, các thiện. Ví dụ giữa Thạch Sanh - Lý Thông, Tấm - Cám, người anh - người em (cây Khế)...
- Trong Người cầm quyền khôi phục uy quyền (Trích Những người khốn khổ) của Huy-gô cũng có sự phân tuyến tương tự như thế: Một bên là cái ác, cái xấu được quy tụ qua hình ảnh ẩn dụ là con mãnh thú độc ác, tàn nhẫn (nhân vật Gia-ve) với một bên là tình thương của con người đã được nâng lên đến mức cao cả, sẵn sàng hi sinh bản thân mình (nhân vật Giăng Van-giăng)