A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả
- Phan Châu Trinh: (1872-1926) hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
- Quê quán: làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hi Mã, tự là Tử Cán.
- Sự nghiệp:
- Năm 1901, đỗ Phó bảng làm quan một thời gian ngắn, rồi từ quan đi làm cách mạng.
- Chủ trương cứu nước: lợi dụng Thực dân Pháp, cải cách đổi mới mọi mặt, làm cho dân giàu, nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia.
- Năm 1908, bị bắt đầy đi Côn Đảo.
- Năm 1925, đi diễn thuyết vài lần, sau đó ốm nặng rồi mất. Đám tang của ông trở thành một phong trào vận động ái quốc trong cả nước.
- Dùng văn chương làm cách mạng:ánh văn chính luận lập luận chặt chẽ, đanh thép; thơ của ông dạt dào cảm xúc về quê hương đất nước,...
- Tác phẩm chính: Đầu Pháp chính phủ thư (1906), Tỉnh quốc hồn ca I,II (1907,1922), Tây Hồ thi tập (1904-1914),...
2. Tác phẩm
- Đây là một đoạn trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây, được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào 19/11/1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn.
- Luân lí xã hội ở nước ta tuyệt nhiên chưa có. Đó là vì người nước ta không biết cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người, không biết cái nghĩa vụ của mỗi người trong nước đối với nhau, dẫn đến tình trạng ai sống chết mặc ai, người này không biết quan tâm đến người khác. Đó là do thiếu ý thức đoàn thể, chưa biết giữ quyền lợi chung, chưa biết bênh vực nhau. Ý thức đoàn thể của dân ta xưa cũng đã có nhưng nay đã xa sút. Sở dĩ thiếu luân lí xã hội là do bọn vua quan chỉ biết quyền lợi ích kỷ của chúng, chỉ biết mua quan bán tước, dân càng nô lệ thì ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quí. Chúng chẳng qua là lũ ăn cướp có giấy phép. Nay nước Việt Nam muốn được tự do, độc lập thì trước hết phải tuyên truyền Xã hội Chủ nghĩa, phải có đoàn thể lo công ích, mọi người lo cho quyền lợi của nhau.
- Tác phẩm toát lên dũng khí của một người yêu nước, vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng tới một ngày tươi sáng của đất nước.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần. Hãy nêu ý chính của từng phần và xác lập mối liên hệ giữa chúng. Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là gì?
Bài làm:
- Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần:
- Phần đầu: từ đầu...Cái chủ ý bình thiên hạ đã mất đi từ lâu rồi -> Khẳng định nhà nước ta không có luân lí xã hội
- Phần hai: Tiếp...Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có cũng là vì thế -> Thực trạng đen tối của xã hội khi không có luân lí
- Phần ba: Còn lại -> Truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam
- Mối quan hệ giữa các phần: Tác giả đã đưa ra lời khẳng định nhà nước ta không có luân lí xã hội để người đọc có cái nhìn tổng quan, từ đó mới đưa các dẫn chứng, lí lẽ so sánh xã hội ta với các nước phát triển ở phương Tây để thấy được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam đương thời. Cuối cùng, đưa ra con đường, giải pháp để thoát khỏi cái hầm đen tối ấy.
- Chủ đề tư tưởng của tác phẩm: Đề cao tư tưởng đoàn thể (vì sự tiến bộ, tương lai tươi sáng của đất nước)
Câu 2: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã chọn cách vào đề như thế nào để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lí xã hội?
Bài làm:
- Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã lựa chọn cách vào đề một cách trực tiếp, không vòng vo: khẳng định nước ta tuyệt nhiên không có luân lí xã hội.
- Ông đã đưa ra các lập luận:
- Phủ định một tiếng bạn bè không thể thay cho luân lí xã hội được
- Đưa ra tư tưởng của Khổng - Mạnh "Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa bản chất của nó, thậm chí có kẻ còn xuyên tạc nguyên lí ấy.
- Việc vào đề một cách trực tiếp để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lí xã hội. Đồng thời cho ta thấy một sự kiên quyết, đanh thép đầy mạnh mẽ trong giọng điệu của tác giả.
Câu 3: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh "bên Âu châu", "bên Pháp" với "bên ta" về điều gì?
Bài làm:
- Trong phần 2, ở đoạn đầu tác giả đã so sánh bên Âu châu", "bên Pháp" với "bên ta" về ý thức, nghĩa vụ của mỗi người trong nước
- Cụ thể là:
- Bên Âu Châu, bên Pháp: Người ta ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, mối quan hệ giữa người với người; dân chủ, tiến bộ, quyết đấu tranh tới cùng vì quyền lợi của con người
Dẫn chứng: "Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh hành như thế, đã phóng đại ra như thế..."; "Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng kì cho đến được công bình mới nghe"
-
- Bên ta: Không biết được nghĩa vụ của mình, không biết tự do dân chủ, không biết đấu tranh vì quyền lợi của cá nhân, thờ ơ, bàng quan giữa người với người
Dẫn chứng: "Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình"
Câu 4: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng "dân không biết đoàn thể, không trọng công ích" là gì? Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế ra sao?
Bài làm:
- Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng "dân không biết đoàn thể, không coi trọng công ích" là:
- Bọn học trò trong nước ham quyền tước, vinh hoa của các triều vua mà giả dối, nịnh hót, chỉ biết vua mà không biết dân
- Kiếm cách dựng nên pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân để giữ túi tham đầy mãi, địa vị được giữ vững
- Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế là những kẻ ăn trên ngồi chốc, tham lam, đốn mạt, ra sức vơ vét, nhũng nhiễu dân thường; ông gọi đó là lũ ăn cướp có giấy phép
- Một người làm quan cả nhà có phước, tham lam, quấy rối, vơ vét, rút tỉa của dân không ai dám bình phẩm
- Lấy lúa của dân mua ruộng vườn, nhà cửa không ai chê bai
- Người nhà dựa hơi quan nhũng nhiễu
- Chen nhau vào chốn quan trường, ganh đua, nịnh hót
- Những kẻ làm quan thì ngu ngốc, không có học thức, hiểu biết gì, làm quan dễ như mua mớ rau ngoài chợ
- Tất cả những bằng chứng được tác giả đưa ra đều xác đáng, chính là hiện thực tối tăm của xã hội đương thời được phơi bày bằng một giọng điệu nghi luận biến đổi linh hoạt, lúc từ tốn, mềm mỏng; lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục.
Câu 5: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Nhận xét về cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích.
Bài làm:
- Tác giả đã kết hợp nhuẫn nhuyễn, khéo lẽo giữa yếu tố biểu cảm và yếu tố nghị luận trong đoạn trích.
- Yếu tố nghị luận là các lập luận, lí lẽ thể hiện tư tưởng, quan điểm của tác giả về luân lí xã hội của nước ta lúc bấy giờ.
- Yếu tố biểu cảm biểu hiện qua các câu cảm thán, các câu than, câu nhận xét như Thương hại thay!, Thương ôi! Làng có một trăm dân mà...., Ôi! Một dân tộc như thế...
- Ý nghĩa của việc kết hợp các yếu tố biểu cảm với nghị luận
- Tạo ra sự linh hoạt trong giọng điệu nghị luận, tác giả không chỉ thể hiện quan điểm của mình bằng lí trí mà còn bằng tình cảm
- Tăng sức thuyết phục cho bài nghị luận
Luyện tập
Bài tập 1: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Đọc lại Tiểu dẫn và hình dung hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng của tác giả khi viết đoạn trích.
Bài làm:
- Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm:
- Năm 1925, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam bắt đầu nổ ra và lan rộng. Phan Châu Trinh sang Pháp tìm cách thúc đẩy cải cách chính trị ở Đông Dương nhưng công việc không thành nên ông về nước, tuyên truyền và vận động thanh niên, trí thức và người yêu nước tại Sài Gòn bằng các bài diễn thuyết.
- Về luân lí xã hội ở nước ta là một đoạn trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây (Gồm năm phần chính, kể cả phần nhập đề và kết luận), được diễn thuyết vào vào ngày 19/11/1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn
- Tâm trạng của tác giả khi viết đoạn trích: căm ghét bọn vua tôi quan lại của triều đình phong kiến; xót xa khi chứng kiến thảm cảnh đau đớn của nhân dân ta trong xã hội hiện thực và khao khát có một sự thay đổi tích cực trong xã hội.
Bài tập 2: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Có thể cảm nhận được gì về tấm lòng của Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này?
Bài làm:
Thông qua đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta người đọc có thể cảm nhận được tấm lòng của một con người yêu nước nồng nàn. Bản thân là một người học rộng, hiểu biết, khao khát cả đời của Phan Châu Trinh là cứu dân, cứu nước thoát khỏi sự thống trị của thực dân Pháp. Khao khát ấy được bộc lộ ngay trong lập luận, tư tưởng của ông khi muốn cách tân đất nước, xây dựng một hệ thống luân lí xã hội. Ông có một tầm nhìn rất xa và một tư tưởng tiến bộ. Chứng kiến cảnh đất nước bị đô hộ, ngày càng trở nên xuống cấp, ông đã tìm được căn nguyên gốc rễ của sự đồi bại, nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không tôn trọng công ích. Bằng một phong cách chính luận độc đáo, với giọng điệu biến đổi linh hoạt, ông đã phơi bày thực trạng đen tối của xã hội, thể hiện nỗi căm ghét đến tận xương tủy bọn vua tôi, quan lại của chế độ phong kiến thối nát. Đồng thời ta cũng thấy được dũng khí của một người nam nhi đứng giữa thời cuộc rối ren, thật giả, trắng đen lẫn lộn và nỗi đau xót, thương cảm của ông với những người đồng bào của mình đang bị chà đạp, bóc lột, sách nhiễu.
Bài tập 3: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Chủ trương gây dựng nên nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay có còn ý nghĩa thời sự không? Tại sao?
Bài làm:
- Với một tư tưởng tiến bộ và tầm nhìn vượt thời, tư tưởng gây dựng nên nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự.
- Bởi lẽ, về bản chất, nền luân lí xã hội ở Việt Nam mà Phan Châu Trinh mong muốn chính là một xã hội có công đức tức là ý thức sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác. Sự thực là xã hội hiện nay của ta đang cần một ý thức như thế bởi con người quá hẹp hòi, ích kỷ, nhỏ nhen chỉ biết đến lợi ích của mình mà không biết đến lợi ích chung của cả cộng đồng. Việt Nam là một nước có tỉ lệ người tốt nghiệp Đại học cao, số lượng Giáo sư, Tiến sĩ cũng nhiều, song lại là một trong những quốc gia không có đóng góp gì cho sự tiến bộ của loài người. Điều đó có nghĩa, chúng ta vẫn không biết được nghĩa vụ của con người với con người trong xã hội là gì, vẫn chỉ là danh tiếng và lợi ích cá nhân mà thôi.