A. Kiến thức trọng tâm

1. Bảng thống kê các bài học phần làm văn trong SGK Ngữ Văn 11

Học kì 1

Học kì 2

Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận

- Thao tác lập luận phân tích

- Luyện tập thao tác lập luận phân tích

- Thao tác lập luận so sánh

- Luyện tập thao tác lập luận so sánh

- Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh

- Phong cách ngôn ngữ báo chí

- Bản tin

- Luyện tập viết bản tin

- Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn

- Luyện tập Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn

- Thao tác lập luận bác bỏ

- Luyện tập thao tác lập luận bác bỏ

- Tiểu sử tóm tắt

- Luyện tập viết tiểu sử tóm tắt

- Thao tác lập luận bình luận

- Luyện tập thao tác lập luận bình luận

- Phong cách ngôn ngữ chính luận

- Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận

- Tóm tắt văn bản nghị luận

- Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận

- Ôn tập phần làm văn

2. Các thao thác lập luận

Thao tác

Nội dung

Yêu cầu và cách làm

So sánh

Tìm ra những điểm giống và khác giữa hai hay nhiều đối tượng

Đặt các đối tượng so sánh trên cùng một bình diện, đánh giá trên cùng một tiêu chí

Nêu rõ quan điểm của người viết

Phân tích

Chia tách, tháo gỡ một vấn đề thành những vấn để nhỏ để chỉ ra bản chất của chúng

Thấy được bản chất sự vật, sự việc

Phân tích phải đi liền với tổng hợp

Bác bỏ

Dùng lí lẽ, dẫn chứng để phê phán, gạt bỏ những quan niệm và ý kiến sai lệch, khẳng định ý kiến đúng và thuyết phục người đọc, người nghe

Bác bỏ luận điểm, luận cứ

Phân tích chỉ ra cái sai

Diễn dạt rành mạch, rõ ràng

Bình luận

Đề xuất ý kiến thuyết phục người đọc, người nghe đồng tình với nhận xét của mình

Trình bày rõ ràng, trung thực vấn đề

Đề xuất những ý kiến đúng

3. Tóm tắt văn bản nghị luận, viết tiểu sử tóm tắt và bản tin

Văn bản

Yêu cầu

Cách thức

Tóm tắt văn bản nghị luận

Trình bày ngắn gọn nội dung văn bản gốc theo mục đích nào đó

 

- Đọc kỹ văn bản gốc, chọn ý phù hợp với mục đích

- Tìm cách diễn đạt lại luận điểm

Viết tiểu sử tóm tắt

Văn bản chính xác, cụ thể về cuộc đời, sự nghiệp của người được nói tới

Cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp

Bản tin

Đảm bảo tính thời sự (đưa tin kịp thời, nhanh chóng), tin phải có ý nghĩa xã hội, nội dung thông tin phải chân thực, chính xác.

- Khai thác và lựa chọn tin

- Viết theo các nội dung sau: nội dung sự kiện, không gian, địa điểm, thời gian cụ thể, con người, diễn biến, tính chất của sự kiện, Kết cục của diễn biến, sự kiện

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Bài tập 1: trang 124 sgk Ngữ Văn 11 tập hai

Trong văn bản Về luân lí xã hội ở nước ta, Phan Châu Trinh vận dụng chủ yếu các thao tác lập luận nào? Hãy phân tích và đánh giá hiệu quả của việc vận dụng khi sử dụng các thao tác lập luận ấy.

Bài làm:

  • Trong văn bản Về luân lí xã hội ở nước ta Phan Châu Trinh vận dụng chủ yếu các thao tác lập luận:
    • Thao tác lập luận bác bỏ
    • Thao tác lập luận phân tích
    • Thao tác lập luận bình luận
  • Tác dụng: Khiến cho bài nghị luận có cái nhìn đa chiều về thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam khi không có đoàn thể, sắc bén và tăng sức thuyết phục với người đọc

Bài tập 2: trang 124 sgk Ngữ Văn 11 tập hai

Khi phân tích nội dung câu cách ngôn "Thất bại là mẹ thành công", anh (chị) bắt đầu phân tích từ đâu, dựa trên cơ sở và sử dụng những ví dụ có thật nào để làm sáng tỏ?

Bài làm:

  • Chúng ta có thể đi phân tích từ những lí do để người ta có câu nói đó:
    • Mỗi lần thất bại người ta rút ra được những bài hoc kinh nghiệm quý giá.
    • Thất bại mà không nản chí cũng là một cách rèn luyện bản lĩnh cho con người.
    • Từ thất bại mà người ta có thể nảy sinh những ý tưởng, cách thức hoàn thành công việc tốt hơn dự định ban đầu.
  • Dựa vào dẫn chứng trong đời sống thực tế để chứng minh những lí do đã nêu ở trên.
  • Trong quá trình phân tích có thể lồng vào thao tác bác bỏ quan niệm sai lầm (sợ thất bại nên không dám làm hoặc bi quan chán nản khi thất bại, không biết rút ra bài học sau mỗi lần thất bại ...)

Bài tập 3: trang 124 sgk Ngữ Văn 11 tập hai

Phân tích tác dụng của việc vận dụng thao tác lập luận bác bỏ trong đoạn văn sau và thử viết một đoạn văn bác bỏ với chủ đề tự chọn.

[...] Thử nghĩ mà xem, con người không biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là con người không? Cái gì cũng "vô úy", cũng tỏ thái độ sắt thép, nghĩa là không biết mềm lòng trước bất cứ một cái gì, đấy là loài quỷ sứ chứ đâu phải là người. "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân dạy cho ta hiểu rằng, muốn nên người phải biết kính sợ ba điều này: cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương). Vậy, kẻ nào không biết sợ cái gì hết là loài quỷ sứ. Loại người này, thực ra rất hiếm hoi, hay nói đúng hơn, không thể có được. Những loại người sau đấy thì chắc không ít: sợ rất nhiều thứ, nhất là quyền thế và đồng tiền, nhưng đối mặt với cái tài, cái đẹp, cái thiên lương thì lại không biết sợ, thậm chí sẵn sàng lăng mạ, giày xéo. Đấy là hạng người hèn hạ nhất, thô bỉ nhất, đồi bại nhất. 

(Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006)

Bài làm:

  • Trong đoạn văn trên, tác giả đã sử dụng thao tác lập luận bác bỏ rất nhuần nhuyễn để bác bỏ những hiện tượng, sự thật sai trái. Việc tác giả liên tiếp sử dụng những câu văn phủ định (với sự xuất hiện của các từ phủ định không biết sợ, không biết mềm lòng, chứ đâu phải, không biết sợ cái gì hết, không thế có được, không ít, không biết sợ...) để khẳng định chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Tác giả đã đưa ra hai hạng người và phủ nhận sự tồn tại (không nên có) của chúng:
    • Hạng người thứ nhất là những kẻ không biết sợ là gì, cái gì cũng "vô úy" thì không phải là người mà là loài quỷ sứ
    • Hạng người thứ hai là những kẻ sợ rất nhiều thứ, nhất là quyền thế và đồng tiền nhưng lại không sợ cái tài, cái đẹp, cái thiên lương thậm chí sẵn sàng lăng mạ, giày xéo thì là những kẻ hèn hạ, thô bỉ, đồi bại nhất.

=> Tác giả đã sử dụng phép lập luận bác bỏ đê phủ định những loại người không biết sợ, sợ nhiều thứ không đáng sợ. Cũng là một cách để ông khẳng định giá trị của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương (bản tính tốt đẹp) của con người.

  • Đoạn văn sử dụng thao tác lập luận bác bỏ

Không phải ai sinh ra cũng đã được sống trong cảnh giàu sang, sung sướng, trong cảnh nhung lụa, gấm hoa. Có rất ít người có được may mắn như thế. Còn phần lớn con người ta sinh ra trong một gia đình bình thường, thậm chí có những gia đình không được nhìn nhận như những gia đình bình thường. Nhưng sinh ra ở đâu, trong hoàn cảnh thế nào không quan trọng. Điều quan trọng nhất là chúng ta sống như thế nào. Có những người sinh ra trong giàu sang, được tạo mọi điều kiện tốt nhất nhưng họ lại không thể trở thành một người tử tế. Bởi trong thế giới giàu sang, họ bị những thứ hào nhoáng, lung linh của nó che mắt, khiến họ không còn đủ tỉnh táo để nhận ra hệ lụy đằng sau đó. Kết quả là họ lao vào những cuộc ăn chơi, sa đọa thâu đêm suốt sáng. Họ trở thành những kẻ ăn không ngồi rồi, tiêu tiền như nước mà không biết cách để kiếm ra nó. Vì vậy, dù có được thừa hưởng một số tiền kếch sù trong tài khoản chỉ vài tháng hoặc vài năm sau họ đã thành kẻ trắng tay, không có nổi một đồng trong túi. Nhưng có những con người kém may mắn hơn, họ sinh ra trong nghèo khó, thiệt thòi đủ thứ, không có điều kiện tốt nhất nhưng họ không hề bị quật ngã bởi số phận. Trái lại, họ lựa chọn cách đối mặt và vươn lên, mạnh mẽ như loài cỏ dại với sức sống bền bỉ, bất diệt. Đa số họ đều thành công và chiến thắng được chính mình trên đường đời của họ. Vì thế mà, đừng bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh đã biến bạn trở thành con người thế nào. Chỉ có chính bạn chấp nhận mình là con người thế nào mà thôi!