Câu 1:
Hình ảnh bà Tú qua bốn câu thơ đầu:
Hai câu đầu đã giới thiệu được hình ảnh bà Tú gắn với công việc mưu sinh.
- Ở câu thơ đầu, tác giả đã giới thiệu về hoàn cảnh, công việc làm ăn của bà Tú, đồng thời thể hiện sự thấu hiểu của nhà thơ về nỗi vất vả của người vơ:
“ Quanh năm buôn bán ở mom sông
+ Thời gian: quanh năm: là một vòng thời gian tuần hoàn khép kín, hết ngày này sang tháng khác, năm này qua năm khác không kể mưa hay nắng.
+ Địa điểm: mom sông - là vùng đất nhô ra sông, nơi đầu sóng ngọn gió.
⟹ Đây là hình ảnh gợi lên hoàn cảnh kiếm sống lam lũ, vất vả với một không gian sinh tồn bấp bênh, khó khăn, chênh vênh, cheo leo và nguy hiểm.
+ Công việc: buôn bán - là công việc sinh nhai của bà, nghề buôn thúng bán mẹt nhỏ lẻ cho thấy sự vất vả, gian nan
⟶ Câu thơ nêu lên hoàn cảnh sống vất vả, lam lũ, cả không gian và thời gian như làm nặng thêm lên những khó khăn, gian khổ trong công việc của bà.
- Câu thơ thứ hai là mục đích công việc của bà:
“Nuôi đủ năm con với một chồng.”
+ Khẳng định và ca ngợi vai trò trụ cột của bà Tú trong việc đảm bào cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ cho cả gia đình.
+ Cái độc đáo ở đây là hai từ chỉ số đếm: “năm” và “một” đặt song song nhau như có ý đặt ngang hàng đàn con đông đúc, chưa đỡ đần được gì cho mẹ và ông chồng vô tích sự chẳng giúp gì được cho vợ. cấu trúc “năm con” đặt cạnh “một chồng” gợi hình ảnh chiếc đòn gánh mà hai đầu đều trĩu nặng, ở giữa là đôi vai gầy và tấm lòng lo toan và tình thương của bà Tú.
- Trên cái nền không gian và thời gian ấy, tác giả còn miêu tả một cuộc mưu sinh đầy khó khăn, gian nan và vất vả.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện giữa cái rợn ngợp của không gian như trong ca dao mà còn trong cái rợn ngợp của thời gian. Hình ảnh thân cò là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho phụ nữ trong xã hội xưa. Có điều, Tú Xương vừa tiếp thu ca dao nhưng vừa có những sáng tạo độc đáo. Dùng cụm từ “thân cò” thay cho “con cò” nghĩa là tác giả đã đồng nhất thân phận bà Tú với thân phận con cò, gợi lên cả một số kiếp, nỗi đau thân phận. Đó là sự côi cút, tội nghiệp từ đó thể hiện nỗi niềm thương cảm vá sự thấm thía cho cuộc sống mưu sinh đầy cơ cực và khó khăn. Có lẽ vì thế mà tình thương của Tú Xương dành cho bà Tú trở nên sâu sắc hơn. Nghệ thuật đảo ngữ “lặn lội thân cò” cũng đã góp phần nhấn mạnh một cách ấn tượng, thấm thía, ngậm ngùi về thân phận vất vả của người vợ lo toan kiếm sống nuôi chồng, nuôi con, gánh vách cả gia đình. Với ba từ “khi quãng vắng” cả thời gian và không gian trở nên heo hút, vắng vẻ, rợn ngợp, chứa đầy lo âu, nguy hiểm. Câu thơ như càng cho thấy sự khó khăn hơn trong cuộc sống mưu sinh của bà Tú.
Ở câu thứ tư, Tú Xương làm rõ hơn sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú. Câu thơ diễn tả lại cảnh chen chúc, tranh giành trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. “Buổi đò đông” có hai cách hiểu: nhiều người trên 1 chuyến đò hoặc nhiều đò trên một bến sông nước. “Buổi đò đông” nơi mà luôn chứa sự “eo sèo” của những người buôn bán. Không chỉ có những lời phàn nàn, kì kèo, cáu gắt, chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy những nguy hiểm bất trắc. Nghệ thuật đảo trật tự từ càng để nhấn mạnh và tăng thêm sự vất vả, gian nan trong cuộc sống mưu sinh của bà Tú.
Hai câu thực đối nhau về từ ngữ: vắng – đông, nhưng lại tiếp nhau về ý làm nổi bật sự gian truân của bà Tú, đó cũng là tấm lòng xót thương da diết của ông Tú.
Bốn câu thơ khắc họa đầy đủ hình ảnh người phụ nữ Việt Nam. Họ đảm đang, tháo vát, bất chấp mọi gian khổ, khó khăn nuôi con, nuôi chồng bằng trách nhiệm, tình thương và đức hi sinh cao đẹp. Tuy không có một từ nào trực tiếp biểu hiện lòng mình nhưng từng câu thơ đã toát ra tình thương, sự biết ơn, lòng mến trọng của nhà thơ với người vợ của mình.
Câu 2:
Những câu thơ nói lên đức tính cao đẹp của bà Tú đó là:
Bà không chỉ là người đảm đang, tháo vát, chu đáo với chồng con: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ đủ trong “nuôi đủ” vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Oái oăm hơn, câu thơ chia làm hai vế thì vế bên này “một chồng” lại cân xứng với cả gánh nặng bên kia “năm con”. Câu thơ cho thấy Tú Xương ý thức rõ lắm nỗi lo của vợ và sự khiếm khuyết của mình nữa. Mọi gánh nặng về công việc trong gia đình đều do một mình bà Tú gánh vác hết. Người phụ nữ luôn lo lắng, chăm lo cho cuộc sống của gia đình. Họ dành cả đời mình để gánh vác việc gia đình.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”
⟹ chăm chỉ kiếm sống làm ăn dù có khó khăn và gian khổ cách mấy. Nghệ thuật đảo ngữ “lặn lội thân cò” cũng đã góp phần nhấn mạnh một cách ấn tượng, thấm thía, ngậm ngùi về thân phận vất vả của người vợ lo toan kiếm sống nuôi chồng, nuôi con, gánh vách cả gia đình. Với ba từ “khi quãng vắng” cả thời gian và không gian trở nên heo hút, vắng vẻ, rợn ngợp, chứa đầy lo âu, nguy hiểm. Câu thơ như càng cho thấy sự khó khăn hơn trong cuộc sống mưu sinh của bà Tú.
Trong hai câu luận, một lần nữa Tú Xương lại cảm phục sự quên mình của người phụ nữ để trực tiếp nói lên những đức tính cao đẹp của bà Tú. Ở bà Tú sự đảm đang tháo vát đi liền với đức hi sinh, thể hiện ở việc bất chấp gian khó, chạy vạy buôn bán để nuôi chồng con. Song dường như những lời thơ miêu tả còn chưa đủ, Tú Xương còn bình luận tiếp:
“ Một duyên hai nợ âu đành phận”
- Duyên chỉ có một mà nợ thì hai, nhưng bà Tú vẫn không một lời phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng vì con.
- Bà lấy ông, có con với ông, nuôi ông và nuôi con, đó là duyên. Có duyên thì mới lấy nhau do trời sắp đặt nhưng đó cũng là nợ. và dù là duyên hay nợ thì bà cũng không kêu ca, vẫn cam chịu “âu đành phận”, “dám quản công” dẫu “năm nắng mười mưa” bà vẫn chấp nhận nỗi cơ cực, nhọc nhằn của đời mình như một sự tất yếu. Bà không hề than thân, trách phận hay oán giận chồng con. Bà sẵn sàng, tự nguyện gánh mọi khổ cực vì chồng con.
⟹ Đây là một phẩm chất rất đáng trân trọng của bà Tú nói riêng và là nét đẹp truyền thống của người phụ nữ VN nói chung.
Đó còn là đức tính hi sinh của bà Tú để gánh vác công việc gia đinh, lo cho chồng, cho con: “Năm nắng mười mưa dám quản công”. Thành ngữ "năm nắng mười mưa" vốn đã có hàm nghĩa chỉ sự gian lao, vất vả nay được dùng trong trường hợp của bà Tú nó còn nổi bật được đức chịu thương, chịu khó hết lòng vì chồng con của bà Tú. Nhưng với bà Tú đó lại là niềm hạnh phúc của một người vợ vì gia đình. Tú Xương đã thay vợ mình nói lên điều này.
Câu 3:
Lời chửi trong câu thơ cuối đó như là lời tác giả tự chửi mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
- Trước hết đây là tiếng chửi đời. Vì thói đời bạc bẽo, lễ giáo phong kiến cứ bắt người chồng phải đi thi làm quan. Bắt người vợ phải ở nhà cham lo mọi việc.
- Sau đó còn là lời tự chửi bản thân mình. Tự coi mình là loại vô tích sự, là loại con bu nó, ăn lương vợ, tự mắng mình là gánh nặng của vợ.
- Sự hờ hững của ông đối với vợ cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo.
- Câu thơ cuối là nhà thơ tự chửi mặt mình, nó cao hơn, đay nghiến và sâu sắc hơn tiếng chửi. Nhà thơ nhận lỗi về mình tự chửi rủa sỉ vả mình tức là tự phán xét bản thân và chuộc lỗi.
- Viết ra câu thơ “có chồng hờ hững cũng như không” thì chắc chắn đó không phải là người chồng hờ hững, mà trái lại luôn mang ơn và biết đến người vợ của mình. Đằng sau tiếng chửi là cả một tình yêu, lòng thương vợ chân thành và sâu nặng của nhà thơ.
Trong xã hội trọng nam khinh nữ, việc một nhà nho như Tú Xương không những nhận ra sự vô dụng của mình mà còn trách mình một cách thẳng thắn, đó chính là một biểu hiện trong nhân cách nhà thơ qua tiếng chửi trong bài thơ.
Câu 4:
Nỗi lòng thương vợ của tác giả đã được thể hiện rất rõ trong bài thơ. Dù một mặt tác giả đã tái hiện rất rõ thân phận cực khổ, long đong của người phụ nữ để từ đó người đọc thấy thương cảm cho họ rồi sẽ trách cứ các đấng ông chồng, nhưng chính điều đó đã thể hiện tình thương vợ của tác giả. Ông viết ra bài thơ cũng chính là để bày tỏ nỗi niềm của mình với vợ, để đề cao những đức tính tốt đẹp của vợ: tần tảo sớm hôm, một lòng một dạ lo cho chồng con, vun vén hạnh phúc gia đình và rất giàu đức hi sinh. Hơn nữa, việc viết ra hai câu cuối, mang ý nghĩ rằng tác giả tự chửi mình càng cho thấy ông yêu thương vợ, trân trọng, biết ơn những thành quả mà vợ làm cho gia đình. Và điều mà thể hiện rõ nhất tấm lòng của mình với vợ đó là việc tác giả đặt nhan đề cho bài thơ: “Thương vợ”. Cách đặt nhan đề đó đã bộc lộ tình cảm trực tiếp mà tác giả dành cho vợ.
Từ đó đã cho thấy một nhân cách tốt đẹp của nhà thơ.
II. Luyện tập
"Thương vợ" là một trong những bài thơ mà Tú Xương vận dụng một cách rất sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian.
- Về hình ảnh:
+ Hình ảnh đầu tiên phải được nhắc tới đó là hình ảnh con cò. Trong ca dao, hình ảnh con cò được sử dụng rất nhiều, và thường ẩn dụ cho thân phận long đong của người phụ nữ. Tuy nhiên, hình ảnh “con cò” nhiều khi cũng tượng trưng cho thân phận người lao động với nhiều bất trắc thua thiệt. Như thế, con cò trong ca dao vốn đã gợi nhiều cay đắng, xót xa. Song dường như ứng vào nhân vật cụ thể là bà Tú thì nó lại càng gợi sự xót xa, tội nghiệp nhiều hơn. Hơn thế nữa so với từ "con cò" trong ca dao thì từ "thân cò" của Tú Xương mang tính khái quát cao hơn, do vậy mà đã phần nào khắc hoạ sâu hơn về cuộc sống của những người người phụ nữ thời xưa. Để từ đó cho thấy tình yêu thương của Tú Xương dành cho vợ cũng phần nào thấm thía và sâu sắc hơn.
+ hình ảnh dân giã, gần gũi với đời sống nhân dân: buổi đò đông,duyên, nợ, phận
- Về ngôn ngữ:
+ sử dụng thành ngữ "năm nắng mười mưa" được vận dụng một cách rất sáng tạo. Cụm từ "nắng mưa" chỉ sự khắc ghiệt của thiên nhiên, từ đó cho thấy công việc của người lao động sẽ phải chịu nhiều vất vả. Các từ “năm”, “mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra rồi kết hợp với "nắng, mưa" tạo nên một thành ngữ chéo. Hiệu quả của nó vừa nói lên sự vất vả, gian lao, vừa thể hiện đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng con của bà Tú.
+ Sử dụng các số kết hợp với những hình ảnh đặc trưng đã càng nhấn mạnh hơn nội dung của bài thơ.